Buồn ngủ lại gặp chiếu manh hay ăn làm biếng gặp anh đứng đường nghĩa là gì

Em tôi buồn ngủ buồn nghê Buồn ăn cơm nếp thịt gà cháo kê Buồn ăn bánh đúc bánh đa Củ từ khoai nướng cùng là cháo kê Buồn ngủ buồn nghê Buồn ăn cơm nếp cháo kê thịt gà Buồn ăn bánh đúc bánh đa Củ từ khoai nướng cùng là cháo kê

Buồn ngủ lại gặp chiếu manh


Đã làm biếng lại gặp anh đứng đường.
BK

Buồn ngủ lại gặp chiếu manh


Ăn bơ làm biếng lại gặp anh đứng đường.

Buồn ngủ lại gặp chiếu manh Hay ăn làm biếng gặp anh đứng đường Buồn ngủ lại gặp chiếu manh

Vừa khi chồng để , gặp anh giữa đường.


Dì Diệu bắt đầu mua sắm , từ cái núm vú da cầm tay tới bình ủ sữa , chiếu manh , nệm trẻ con , mùng chụp.
Giường xếp , chiếu manh , tấm ni lông , thậm chí cả giấy báo , chỉ còn chừa một lối đi giữa cho những bước chân thắc thỏm vội vã từ phòng cấp cứu ra khu vệ sinh chung.

Trích từ: Ca Dao Ngụ Ngôn Người Việt - Triều Nguyên - Nhà Xuất Bản Thuận Hóa  

11 . BỢM VẬT VÀ BỢM HÒ NGHE ĐÁNH TIẾNG

Bợm vật nghe tiếng máy gân,

Bợm bò nghe tiếng xa gần cũng đi.

Ghi theo VHDGTH: 189 và VHDGQT: 249.

Các đô vật [bợm vật] nghe đến chuyện đấu vật gân cốt đã máy động; các nghệ nhân hò [bợm hò] nghe đến chuyện hò hát ở đâu, cũng tìm đến dự cuộc mới bằng lòng. Đây là sự tìm đến nhau ở nhưng người đồng thanh khí [Đồng thanh tương ứng đồng khí tương cầu] Nói rộng ra là nhu cầu giao tiếp] mang tính chất nghề nghiệp, sở thích cá nhân.

Mỗi người tùy theo hoàn cảnh địa vị xã hội và nghề nghiệp, sở thích cá nhân mà có những tâm lí, trạng thái ứng xử riêng [như đứng trước một vấn đề, sự kiện phù hợp, sẽ gây hưng phấn mạnh]; cho nên để tìm hiểu về một người, điều không thể quên là phải nắm bắt các sở thích cùng những đặc điểm tâm lí của người ấy. Đó là ngụ ý của bài ca dao.

BỢM VẬT VÀ BỢM HÒ

12. BỤNG MẸ HÃY CÒN THÈM

Hỡi thằng cu lớn, hỡi thằng cu bé!

Cu tí cu tị cu tỉ cu tì ơi !

Con dậy con ăn, con ở với bà,

Để mẹ đi kiếm một và con thêm.

Bố con chết đi, trong bụng mẹ đây nó hãy còn thèm,

Mẹ xem quẻ bói, vẫn còn đàn em trong bụng này.

Con ra gọi chú vào đây,

Để mẹ giao trả cái cơ nghiệp này mẹ bước đi.

Ghi theo TNPD 'l91-92, TCBD l: 459. Các sách HHĐN: 133, VNP l: 170 cũng có chép bài ca dao này với đôi chỗ khác biệt nhỏ. Những tập vừa nêu cùng các tập NASL l37aNASLl21b cũng cỏ chép bài ca

dao mang nội dung gần gũi với bài trên như sau:

Hỡi thằng cu bé, hỡi tháng cu lớn!

Cu tí, cu tị, cu tì ơi!

Con dậy con ăn, con ở với ông

Để mẹ đi lấy chồng, kiếm lấy em con

Và sách NASL I: 35a-35b cũng chép bài tương tự:

Con ơi, con ở với bà,

Để mẹ xuất giá kiếm và em thêm.

Bụng mẹ nó hãy còn thèm,

Xem một quẻ bói, còn lắm đàn em trong cái bụng này.

Người đàn bà góa trong bài ca dao có một lũ con trai đang ở nhà chồng và cai quản cơ nghiệp của chồng [có mẹ chồng và em trai chồng được nói đến]. Không có lấy một chút lí do về sự bất ổn từ cảnh sống chung này, để chị nó có thể vin vào mà từ rẫy. Thử xem các hành động đầy quyền uy của chị: -> gọi đàn con dậy tuyên bố từ nay chúng phải ở với nội, vì lí do “bụng mẹ còn thèm" bảo con đi gọi chú của chúng vào để trao trả sản nghiệp mà đi.

Cái lí do duy nhất là thèm khát chuyện gối chăn đã được chị ta nêu thẳng thừng. Người phụ nữ phải thật sự có bản lĩnh, có sức sống mãnh liệt, mới vượt qua được sự gắn bó với gia đình chồng, sự quyến luyến của tình mẫu tử và quan niệm "tam tòng lừ đức" đang chế ngự cộng đồng như vậy. Thần tình ái dã chiến thắng tất cả.

Có lẽ đây là bài ca dao cười cợt, chế giễu chuyện “đi bước nữa" của người phụ nữ [thời trước]; dù vậy, một lời ngụ vẫn cần được nói ra ở đây là: ái tình có sức mạnh to lớn con người có thể đánh đổi tất cả để được nó; nắm hiểu điều này, con người tạo được cho mình sự thăng bằng tâm sinh lí, và giải quyết thỏa đáng các vấn đề liên quan.

BỤNG MẸ HÃY CÒN THÈM

13. BUỒN NGỦ GẶP CHIẾU MANH

Buồn ngủ lại gặp chiếu manh,

Vừa khi chồng để, gặp anh giữa đường

Ghi theo HHĐN: 124. chiếu manh" là mảnh chiếu cũ, đã sởn rách; "chồng để" tức chồng bỏ, li dị chồng; lanh giữa đường" chỉ chàng trai bị dang dở tình duyên [như bị vợ bỏ hay vợ chết]. Khi buồn ngủ mà gặp được manh chiếu. dù sờn rách, cũng rất tốt; khi chồng bỏ mà gặp được ngươi đàn ông "nửa đường gãy gánh”, muốn được cùng chắp nối tơ duyên thì thật tương xứng.

Sự may mắn, tương phùng mang tính ngẫu nhiên Và sự ngẫu nhiên ấy, chính là cơ hội cho những ai gặp chuyện chẳng may trong cuộc đời cần biết mà nắm bắt lấy, để bù đắp cho những mất mát của mình, bởi dịp may thường không đến nhiều lần. Có lẽ, đó là ngụ ý của bài ca dao.

BUỒN NGỦ GẶP CHIẾU MANH

14. CÁ RÔ GIƯƠNG VẨY

Con Cá Rô nằm nghỉ dưới hồ,

Trương vi trương vẩy biết khi mô hóa rồng.

Ghi theo VHDGQT: 250.

Cá Rô nhỏ bé, vi vẩy khá sắc nhọn. Khi có dấu hiệu nguy hiểm, nó thường giương [trương] vi vẩy sắc bén ấy ra, khiến ta có cảm giác nó muốn giễu võ giống oai. Và một liên tưởng dễ đến, đó là chuyện cá chép vượt long môn để thành rồng vào tháng ba hàng năm; dẫu có giương vi giương vẩy trợn mắt phồng mang thế Cá Rô e cũng là Cá Rô thôi, biết bao giờ thành Rồng được mà hòng mong.

Tài hèn đức mỏng thì thủ phận không nên mơ tưởng chuyện vượt quá sức mình. Mà dẫu có cố gắng làm ra vẻ phi thường thì cũng chẳng ích gì, ngoài nhận lấy tiếng cười chê.

Đó là ngụ ý của bài ca dao.

CÁ RÔ GIƯƠNG VẨY

15. CÁCH SÔNG PHẢI LỤY ĐÒ

Cách sông nên phải lụy đò,

Tối trời nên phải lụy o bán dầu.

Ghi theo CVPD: 29 và TCBD l: 498. Các sách HT: 149, TNPD l: 60, NASL III: 55b và TNCD: 103 cũng có chép bài ca dao với vài khác biệt nhỏ. [riêng TNCD, dòng cuối ghi là [cách nhà nên phải lụy cô bán hàng".

Mỗi dòng của bài ca dao đều theo mô hình cấu trúc [vì] P nên phải lụy Q [P: một trở ngại thuộc khách quan; Q: người đang làm công việc khắc phục trở ngại ấy]. “Lụy" là nhẫn nhịn, chiều theo ý người khác, vì cần nhờ họ. Vì nơi đến là bên kia sông, nên phải lụy người lái đò; vì đêm tối, cần có đèn đuốc nên phải lụy cô bán dầu,...

Người chịu lụy do ở vào thế chẳng đặng đừng,, nên mang tính chất đối phó, kiểu “giả dại qua ải", không thực bụng [chính đây là nguyên nhân tạo ra dáng vẻ làm cao,. khá phổ biến Ở những người bán hàng - cũng là dáng vẻ giả tạo]. Ca dao cũng nói thêm về tâm lí này:

Cách sông nên phải lụy thuyền,

Những

như đường liền,

ai

phải lụy ai.

[NAS

III: 55b]

Bài ca dao muốn khuyên ra nên nhẫn nhịn, chiều lòng

những người

mà mình cần đến sự giúp đỡ của họ, để đạt được

mục

đích đồng

thời, phía những ai làm công

việc

"dịch vụ" kia, cũng nên nhận thức đúng vai trò của mình, để tránh vẻ làm bộ làm

tịch

không đáng có.

">CÁCH SÔNG PHẢI LỤY ĐÒ

16. CÁI BỐNG LÀM THƠ

Cái

Bống

cái

Bống

Bang,

Mẹ

Bống

yêu

Bống

,

Bống

càng

làm

thơ.

Ngày sau

Bống

đỗ ông đồ,

Đi võng lá sắn, đi dù lá khoai.

Ghi theo

CDNĐ

: 30. Các sách

NASL

l

: 35b,

NGCK

: 165a chỉ chép

hai dòng đầu thành bài riêng.

Đây

là bài hát dành cho con trẻ. Hai dòng đầu nói chuyện “

làm thơ”

, của

Bống

, là bởi mẹ cưng chiều. Hai dòng sau là

kết

quả

của việc là

m thơ ấy:

Bống

đỗ “Ô

ng

đồ". Chẳng có bằng cấp nào mang

t

ên

ông

đồ". Chỉ có một hạng

người

có học ít nhiều [có khi đỗ đến tú

tài] làm nghề dạy học [và thường kiêm

cả

việc viết thuê sớ điệp, xem tử vi, ...] kiếm sống, được gọi là ông đồ.

Ông đồ được nhiều người quý trọng, các cô gái mơ tưởng: “C

hẳng

tham ruộng cả ao liền, Tham vì cái bút

cái

nghiên anh đồ"

[V

NPS

: 61a] . Nhưng với

đạ

i đa số những người nông dân mù

chữ thì

hình ảnh ông đồ như bị

chõi

ra [không

hợp

về nghề nghiệp, về quan niệm s

ống

Và hình ảnh ông đồ

“Đi

võng lá sắn, đi dù lá

khoai”

,

hàm

ý giễu cợt

giấc

mơ công hầu không thành [do thi

trượt

hoặc

thi

cử theo Hán học bị bãi bỏ, giai đoạn thay bằng chữ

quốc

ngữ] của ông đồ, phải sống nhở vào các sản phẩm nông nghiệp tầm thường, mà suy nghĩ thì tận đâu đâu. Sự phê phán này được bọc giấu kĩ qua lời hát trẻ con, về một

đứa

bé cụ thể, với thái độ nửa yêu" chiều, nữa chê

trách

[cũng là thái độ hai mặt

của

nông dân với ông

đồ như vừa phân tích

], quả là khéo léo, đáng để chúng ta suy ngẫm.

CÁI BỐNG LÀM THƠ

17. CAM SÀNH CHÊ ĐẮNG,

CHÁO

BỔI

KHEN NGON

Cam sành chê đắng, chê hôi,

Hồng rim

chê

lạt, cháo bồi khen ngon.

Ghi theo

HHĐN

: 97.

Cam sành, hồng rim thì ngọt [và thơm ngon]. Điều này hiển nhiên đến không cần giải thích [ví dụ: với cam sành: “

chẳng

chua cũng thể là chanh; Chẳng ngọt cũng thể cam sành chín cây

" [

ĐHQT

: 85a]].

Ấy

thế mà nhân vật của bài ca dao lại chê đắng, hôi, lạt.

Các

mùi

vị

quả là xa lạ với người ăn bình

thường.  

Việc chê bai khác thường kia không do đau ốm mà ra. Bằng chứng là

anh/chị

này "khen ngon" món cháo bồi, thứ cháo nhiều

người

không

nuốt

nổi. Lại cũng cần nói rõ thêm, là chẳng có một sự nhầm lẫn nào giữa cam sành, hồng

rim

và cháo

bồi

[bởi chúng quen

thuộc

và có hình dáng bên ngoài rất dễ phân

biệt]. Ở

điểm này, c

húng

khác với các thứ được khen

chê

trong bài

ca

dao sau:

Cây

tùng cây bá anh chê,

Cây đa, cây dứa sum suê anh dùng.

[VHDGQT:

184]

Tùng, bá có thể

cho

là quý hơn

đa

dứa; nhưng anh thích cái sum suê " của hai loài cây sau

hơn.

Ít nhiều có sự nhầm lẫn do

dáng

vẻ bên

ngoài,

ở đây, tuy nội

dung

cơ bản khá gần gũi với

bài

ca

dao

đang bàn.

Chuyện

khen chê ngược đời

của

nhân vật, chỉ

thể giải thích

do

tình cảm. tâm trạng [như sự thương - ghét

khiến

cái nhìn

về

trái ấu và quả bồ hòn

khác

hẳn nhau:

"Thương

nhau

trái

ấu cũng tròn,

ghét

nhau bồ hòn

cũng

méo

" - tục ngữ]. Như vậy, Ở mức nghĩa khái quát

bài ca dao nhằm nêu một nhận xét: Chuyện khen chê của người đời không phải bao giờ cũng

khách

quan [mà lắm lúc chỉ

thuộc

vào cảm tính], đừng lấy nó làm căn cứ duy nhất.

CAM SÀNH CHÊ ĐẮNG

18. CÂY SẬY VÀ DÂY LEO

Đầu đường có một Dây Leo,

Trông

cậy

Sậy nhỏ, ra điều mỉa mai,

Rằng: "Sao bé thấp lạ đời,

Trông em, anh cũng nực

cười

lắm

thay

"

Nghe lời, Sậy mới đáp ngay,

Rằng: "Mày không nghĩ phận mày xem sao,

Nhờ ai mày mới được cao?

Những như thân ấy, còn bao giờ mà?

Ta đây dù

thấp

là đà,

Tự ta ta

mọc

,

chẳng

nhờ cậy

ai”

Ghi theo

CDNT

: 264. 1

Dây Leo nhờ bám vào một cây mộc mới lên cao được. Nó vờ quên, hoặc đã quên đi điều

ấy

, mới cười cợt, mỉa mai

cây

Sậy là đà dưới đất. Dây Leo do đang ở cao nên tỏ ra trịch thượng, bề trên,

tự

xưng mình là "anh", gọi Sậy bằng "em". Thái độ kẻ cả này

của

Dây

Leo

bị Sậy gạt bỏ ngay. Có hai ý

được

nhận ra ở lời nói của Sậy: 1. Không có quan hệ anh em gì với hạng sống nhờ mà

phách

lối, nếu phải xưng hô, thì “t

a

",

"mày" thôi; và 2. Mày leo cao được

nhờ dựa vào kẻ khác, còn như thân mày thì chẳng ra gì; còn với ta, tuy có thấp bé

những

tự ta mọc, chẳng phải

dựa

dẫm

như

mày.

Lời nói thật rõ ràng, đứt khoát. Nó thể

hiện

ý

thức

về sự độc lập, tự chủ, tự tin của Sậy; đồng thời, cũng cho thấy

cái

nhìn xác đáng của nhân vật này, cái nhìn đã nâng tầm vóc của Sậy cao hơn hẳn so với Dây Leo.

Ở khía cạnh nhân sinh, chỗ đứng,

địa

vị

cao

thấp của mỗi cá nhân trong xã hội chỉ thật sự có ý nghĩa khi nó

tương

xứng với năng lực, tầm cỡ của con người ấy; tuyệt không vì đứng ở một vị trí cao mà cho

mình

là cao, khi chỗ đứng ấy do nhờ cậy, dựa dẫm [vào một cá nhân hoặc một tổ chức] mà có, chứ tự thân không có hoặc không có đủ tầm vóc theo đúng yêu cầu của chức vụ, địa vị kia. Chỉ bằng sự tự biết mình và những hiểu biết về tự nhiên, về con người và xã hội con người nói chung, mới giúp ta nhận ra điều vừa trình bày. Và đó là ngụ ý của bài ca dao.

CÂY SẬY VÀ DÂY LEO

19. CHÀNG LÀNG CHÈO CHẸT

Chàng làng

chèo

chẹt

không làm chi ai,

Cu cu thủ thỉ,

ăn

hết đỗ hết khoai nhà người.

Ghi

theo

CDNT

: 276.

Chàng

làng

là loài chim vóc bằng bồ chao, lông đen,

đuôi

dài,

kêu

chèo

chẹt".

Tuy

kêu vậy nhưng vô

hại không

làm chi ai". Cu cu có tiếng

kêu

thủ thỉ, nhỏ

nhẻ

nhưng lại

ăn

hết đỗ hết khoai"

người

khác.

Trong phạm vi gia đình, về quan hệ giữa

người

làm dâu với anh

chị

em chồng, ca dao có bài:

Mụ

o

chèo

chẹt

không

c

hi

,

Ông chú lẩn

thẩn

có khi

mất c

hồng.

[VHD~HP:

166]

Như vậy. không phải căn cứ vào chuyện nói nhiều, nói lớn

tiếng nói

dữ

dằn hoặc

chuyện

nói

năng nhỏ nhẹ, dễ lọt tai, để đánh giá

việc

gây hại [hay có lợi]; trong khá nhiều trường hợp, những lời thủ

thỉ

ngọt ngào lại không mang đến những điều tốt đẹp. Đó là ý

nghĩa

của

bài

ca dao.

CHÀNG LÀNG CHÈO CHẸT

20. CHÀNG VỀ, ĐỤC CŨNG VỀ

 

Chàng về thì Đục cũng về,

Dùi Cui ở lại, làm nghề gì ăn?

Ghi theo

DCNTB

191.

Chàng, đục, dùi cui là ba dụng cụ chính trong bộ đồ nghề của

thợ mộc

. Có chàng, có

đục phải

có dùi cui mới hoạt động

được. Đục

và chàng

lại

có chức năng gần gũi nhau. thường

được

xếp cạnh

nhau

trong ngăn đồ nghề;

riêng

dùi

cụi

làm bằng tre, gỗ, trong

nhiều

trường hợp, người thợ không

mấy

khó khăn để làm ra nó ngay

sử dụng, nên thường vứt lại sau khi xong

việc

.

Tác giả dân gian đã biến ba dụng cụ

với

các đặc điểm vừa

nêu

thành ba nhân vật của bài ca dao. Khi mới đọc dòng đầu, dễ làm

ta

liên tưởng đến

hai

bài ca dao sau:

Chàng về

thì thiếp

cũng

về,

Chàng

về

thiếp ở làm nghề chi đây?

[

CDTCM

:

3]

Chàng v

ề thiếp một theo mây,

Con thơ

để

lại chốn này ai nuôi

?

[HHĐN:

107]

Chàng và

Đục

có thể coi là chàng với thiếp; vậy

Dùi

Cụi

người thứ ba, khả năng là bố mẹ, bạn bè hay con cái của họ.

Mỗi

khi đôi vợ chồng [hay hai nhân vật sáng giá] ra đi, để lại người

thứ

ba không đủ sức gánh vác công việc, thì chuyện bỏ đi ấy là có

tội, vì

nó đẩy người này vào

chỗ

không biết

làm

gì mà sống.

Do

vậy

lời

ngụ c

ó thế rút

ra

đây

là:

Với

những

người

làm chung một việc cùng ta, nói rộng hơn, cùng một

mối

quan hệ gắn bó nào đó,

thì

nên

giữ

mối quan hệ

này

nếu buộc

phải

tách rời, thì cần lượng đính những hậu quả, vấn đề

thể xảy ra

với

họ, để có sự giúp

độ

thích hợp.

CHÀNG VỀ, ĐỤC CŨNG VỀ

Video liên quan

Chủ Đề