Chủ nghĩa tư bản bóc lột công nhân như thế nào

Quan hệ sản xuất của chủ nghĩa tư bản đương đại những giới hạn không thể vượt qua

[ĐCSVN] - Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa nói chung và quan hệ phân phối nói riêng đã được điều chỉnh thích nghi như thế nào? Những mâu thuẫn cơ bản vốn có nào của chủ nghĩa tư bản mà nó không thể tự khắc phục được? Và tại sao chúng ta không lựa chọn con đường tư bản chủ nghĩa? Dưới góc nhìn khoa học kinh tế chính trị, bài viết sẽ góp phần làm rõ những luận điểm trên.

Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng đã có bài viết quan trọng “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” đăng trên Báo Nhân Dân số ra ngày 17/5/2021. Bài viết chỉ rõ: “Chúng ta thừa nhận rằng, chủ nghĩa tư bản chưa bao giờ mang tính toàn cầu như ngày nay và cũng đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, nhất là trong lĩnh vực giải phóng và phát triển sức sản xuất, phát triển khoa học - công nghệ. Nhiều nước tư bản phát triển, trên cơ sở các điều kiện kinh tế cao và do kết quả đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đã có những biện pháp điều chỉnh, hình thành được không ít các chế độ phúc lợi xã hội tiến bộ hơn so với trước. Tuy nhiên, chủ nghĩa tư bản vẫn không thể khắc phục được những mâu thuẫn cơ bản vốn có của nó…”. Vậy, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa nói chung và quan hệ phân phối nói riêng đã được điều chỉnh thích nghi như thế nào? Những mâu thuẫn cơ bản vốn có nào của chủ nghĩa tư bản mà nó không thể tự khắc phục được? Và tại sao chúng ta không lựa chọn con đường tư bản chủ nghĩa? Dưới góc nhìn khoa học kinh tế chính trị, bài viết sẽ góp phần làm rõ những luận điểm trên.

1. Những điều chỉnh, thích nghi có tính bước ngoặt về quan hệ sản xuất của chủ nghĩa tư bản đương đại

Trước hết, phải nhìn nhận chủ nghĩa tư bản là một nấc thang trong tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại. C.Mác đánh giá: Chủ nghĩa tư bản là xấu xa so với chủ nghĩa cộng sản, nhưng nó là một hình thái kinh tế, xã hội tiến bộ nhất so với những hình thái kinh tế, xã hội đã có trong lịch sử. Và sự điều chỉnh, thích nghi của chủ nghĩa tư bản đương đại được thực hiện trên nhiều phương diện, nhất là quan hệ sản xuất.

Trở lại lịch sử những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, trước sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu và Liên Xô, các học giả tư sản “rêu rao” về chiến thắng của chủ nghĩa tư bản, cho đây là thời điểm “cáo chung của học thuyết Mác”, rằng chủ nghĩa xã hội đã “lỗi thời, lạc hậu”, và chủ nghĩa tư bản mới là đích đến cuối cùng của nhân loại. Đồng thời, bằng những điều chỉnh để tự thích nghi về quan hệ sản xuất, họ cũng biện minh cho một thứ chủ nghĩa tư bản đã có sự thay đổi về chất để trở thành chủ nghĩa tư bản hiện đại, chủ nghĩa tư bản nhân dân, chủ nghĩa tư bản tiến bộ… Vậy, những điều chỉnh về quan hệ sản xuất của chủ nghĩa tư bản đương đại là gì?.

Về quan hệ sở hữu: Ngoài đối tượng sở hữu đã có những thay đổi lớn [từ sở hữu hiện vật sang giá trị], với việc chia nhỏ cổ phần, phát hành cổ phiếu mệnh giá thấp, chủ nghĩa tư bản đã huy động được hàng triệu nguồn vốn nhỏ lẻ, nhàn rỗi trong các tầng lớp nhân dân tập trung thành nguồn lực to lớn phục vụ cho sản xuất, kinh doanh, phần nào làm cho quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa còn phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, tạo “không gian” cho chủ nghĩa tư bản tiếp tục phát triển. Sự điều chỉnh về quan hệ sở hữu phần nào “xóa đi” ranh giới giữa nhà tư bản với người lao động, tạm thời dung hòa mâu thuẫn giữa ông chủ và người làm thuê. Bởi về mặt hình thức, cả nhà tư bản và người lao động đều có cổ phần và trở thành cổ đông của nhà máy, xí nghiệp nên đều là “ông chủ” - đồng sở hữu, đều “bình đẳng” trước phương án tổ chức quản lý và kết quả sản xuất kinh doanh.

Về quan hệ tổ chức quản lý sản xuất: Trong chủ nghĩa tư bản đương đại, ta thấy dường như các nhà tư bản tách rời và đứng ngoài quá trình tổ chức quản lý sản xuất. Bằng việc áp dụng những thành tựu khoa học, công nghệ và sử dụng những người lao động có trình độ cao về tổ chức quản lý sản xuất, các nhà tư bản đã từng bước hoàn thiện quy trình sản xuất, đồng thời chọn lựa đưa ra được những phương án kinh doanh tối ưu. Các nhà tư bản không còn trực tiếp hiện diện trong các dây chuyền sản xuất như vai trò của những người “đốc công”. Quan hệ trong quá trình tổ chức sản xuất kinh doanh dường như chỉ còn lại là quan hệ giữa những người lao động với nhau. Có chăng chỉ là sự khác biệt về “sắc áo, lợi ích và thẩm quyền”. Mâu thuẫn, xung đột trực diện giữa các nhà tư bản và lao động dường như đã được giải quyết.

Về quan hệ phân phối: Bên cạnh các hình thức phân phối thông qua giá cả sức lao động, trong chủ nghĩa tư bản đương đại cũng xuất hiện nhiều hình thức phân phối khác đa dạng, phong phú hơn. Bao gồm: Điều tiết phân phối giá trị thặng dư thông qua thuế; phân phối thông qua lợi tức cổ phần; trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp xã hội; các hình thức đầu tư cho giáo dục đào tạo; chăm sóc sức khỏe; tăng mức “thưởng và đãi ngộ cho người lao động”… phần nào tạo ra nguồn thu nhập thêm cho người lao động. Sự bóc lột của nhà tư bản không còn “đậm nét” như những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX mà thay vào đó là hình ảnh của các nhà tư bản “quan tâm, chăm sóc và sẻ chia” cùng người lao động.

Như vậy, sự điều chỉnh về quan hệ sản xuất của chủ nghĩa tư bản đã làm cho hình ảnh “cừu ăn thịt người” với “lỗ chân lông nhuốm đầy máu và nước mắt của giai cấp vô sản” của chủ nghĩa tư bản “bóc lột, ăn bám”, “tàn nhẫn” trong quá khứ bị lu mờ. Thay vào đó là hình ảnh về một chủ nghĩa tư bản “hiện đại, tiến bộ”, “chủ nghĩa tư bản nhân văn, nhân ái”… Tuy nhiên, chúng ta hoàn toàn có thể giải thích khoa học cả về hiện tượng, hình thức, mục đích, nguyên nhân và giới hạn của sự điều chỉnh thích nghi của chủ nghĩa tư bản đương đại.

2. Bản chất của những điều chỉnh, thích nghi về quan hệ sản xuất của chủ nghĩa tư bản đương đại

Cần khẳng định: Sự biến đổi thích nghi về quan hệ sản xuất của chủ nghĩa tư bản đương đại là có thật nhưng sự điều chỉnh đó không thể tự nó chuyển sang một hình thái kinh tế - xã hội mới. Sự điều chỉnh đó vẫn trong phạm vi giới hạn vỏ bọc của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Vì vậy, chủ nghĩa tư bản ngày nay vẫn nằm trong giai đoạn độc quyền của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Có thể cắt nghĩa vấn đề trên bằng những luận cứ khoa học sau:

Một là, về quan hệ sở hữu: Mặc dù có sự đa dạng về sở hữu, nhưng vấn đề đặt ra là trong hàng triệu triệu cổ phần của các doanh nghiệp tư bản chủ nghĩa, người lao động nắm tỉ lệ bao nhiêu? Ai vẫn là người nắm số lượng cổ phần, cổ phiếu lớn hoặc giữ tỉ lệ cổ phiếu chi phối?... Câu trả lời chắc chắn vẫn là các nhà tư bản. Thông qua chế độ tham dự, theo mô hình một công ty mẹ khống chế nhiều công ty con, một công ty con khống chế nhiều công ty cháu... mà quyền lực kinh tế, chính trị, xã hội của nhà tư bản, của các tổ chức độc quyền tăng lên. Vì vậy, nền sản xuất tư bản chủ nghĩa hiện nay vẫn dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Những điều chỉnh thích nghi về quan hệ sở hữu trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa hiện nay làm cho nó phù hợp được phần nào đó với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất nhằm mục tiêu tiếp tục duy trì và củng cố chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản về tư liệu sản xuất, tuy nhiên, bản chất của quan hệ sở hữu không thay đổi.

Hai là, về tổ chức quản lý sản xuất: Trong tổ chức quản lý sản xuất, việc thuê mướn hoặc sa thải [kể cả giám đốc điều hành sản xuất, giám đốc kỹ thuật, giám đốc marketing, thậm chí cả giám đốc tài chính …] đều do các nhà tư bản quyết định. Những điều chỉnh thích nghi về quan hệ tổ chức quản lý sản xuất nhằm khai thác tối đa nguồn lực con người, tiềm lực khoa học, công nghệ phục vụ cho khát vọng làm giàu của nhà tư bản và toàn bộ giai cấp tư sản. Sự điều chỉnh thích nghi về tổ chức quản lý đã tạo ra sự thích ứng nhất định để thúc đẩy xã hội hoá lực lượng sản xuất tạo điều kiện cho kinh tế phát triển. Tuy nhiên, do tư liệu sản xuất thuộc quyền chiếm hữu của nhà tư bản nên quyền tổ chức quản lý sản xuất vẫn do giai cấp tư sản điều hành, chi phối và mang tính chất tư bản chủ nghĩa. Quan hệ giữa nhà tư bản với công nhân vẫn là quan hệ giữa ông chủ và người làm thuê. Trong cuốn “Tư bản thế kỷ XXI”, Thomas Piketty, nhà kinh tế học người Pháp nhận định “Dữ liệu kế toán mà hiện tại các doanh nghiệp được yêu cầu phải công bố là hoàn toàn không đủ để cho phép người lao động hay những công dân bình thường có thể có ý kiến về các quyết định của công ty, nói gì đến việc can thiệp vào những quyết định đó”[2].

Ba là, trong quan hệ phân phối: Thực hiện trả lợi tức cổ phần và sử dụng một bộ phận lợi nhuận khổng lồ để phân phối thông qua các quỹ không làm cho bản chất của quan hệ phân phối thay đổi. Nhìn nhận một cách khác, việc điều chỉnh quan hệ phân phối sản phẩm phần nào góp phần cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của người công nhân làm thuê. Tuy nhiên, những điều chỉnh về quan hệ phân phối đã làm cho một số người lầm tưởng rằng chủ nghĩa tư bản không còn là xã hội bóc lột và bất công, là “chủ nghĩa tư bản nhân dân”, xã hội mà “toàn dân là tư sản”, từ đó gây ra sự chia rẽ trong phong trào đấu tranh của công nhân.

3. Giới hạn về những điều chỉnh, thích nghi của chủ nghĩa tư bản - Chủ nghĩa xã hội hiện thực sẽ là tất yếu

Chủ nghĩa tư bản không thể tự mình vượt ra ngoài vỏ bọc của chính nó để biến thành một hình thái kinh tế - xã hội mới. Đó cũng chính là giới hạn của sự biến đổi thích nghi, quy định địa vị lịch sử của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa nói chung và của chủ nghĩa tư bản giai đoạn độc quyền nói riêng. Giới hạn mà chủ nghĩa tư bản không thể vượt qua chính là lực lượng sản xuất đã phát triển ở trình độ cao, tạo ra một khối lượng hàng hoá vật phẩm và dịch vụ khổng lồ, lẽ ra nhân loại sẽ không còn đói nghèo, thất nghiệp, thất học và nợ nần v.v. để từng bước đạt tới đỉnh cao của văn minh và hạnh phúc. Nhưng trên thực tế, ngay ở những nước tư bản phát triển nhất, tình trạng bóc lột, bất công, đói nghèo vẫn đang diễn ra và ngày càng sâu sắc hơn. Nguyên nhân của những tình trạng này là do quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất vẫn giữ địa vị thống trị trong nền kinh tế. Quan hệ sản xuất đó mâu thuẫn ngày càng sâu sắc hơn với lực lượng sản xuất đã xã hội hoá ở trình độ cao. Đây chính là mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản hiện đại và được biểu hiện về mặt xã hội thành những mâu thuẫn chủ yếu sau:

Thứ nhất, mâu thuẫn giữa tư bản với lao động làm thuê: Hiện nay, giai cấp công nhân hiện đại có trình độ chuyên môn ngành nghề ngày càng cao, trong số đó có người giữ các chức vụ là giám đốc, tổng giám đốc... Nhưng xét cho cùng vì không có tư liệu sản xuất nên họ vẫn ở địa vị của người làm thuê, vẫn phải làm việc dưới sự kiểm soát của nhà tư bản. Tiền lương vẫn là thu nhập chủ yếu và vẫn là giá cả sức lao động của người công nhân làm thuê. Họ vẫn đang bị bần cùng hoá [cả tương đối và tuyệt đối].

Thứ hai, mâu thuẫn giữa các nước tư bản phát triển với các nước đang phát triển, chậm phát triển: Sau sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân kiểu cũ và chủ nghĩa thực dân kiểu mới, các nước tư bản phát triển vẫn không từ bỏ ý đồ lôi kéo các nước đang phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa nhằm áp đặt quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trên phạm vi toàn cầu. Theo đó, từ những năm 80 của thế kỉ XX trở lại đây, người ta nói nhiều về “chủ nghĩa thực dân kinh tế”, “chủ nghĩa thực dân công nghệ”. Chính mối quan hệ kinh tế bất bình đẳng giữa các nước tư bản phát triển với các nước thế giới thứ ba đã đem lại những khoản siêu lợi nhuận cho các tập đoàn, công ty xuyên quốc gia, đa quốc gia. Nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, sức lao động dồi dào và rẻ mạt đã biến các nước có nền kinh tế lạc hậu thành những miền đất hứa cho tư bản sinh sôi và cho những công nghệ, thiết bị lạc hậu của các nước tư bản phát triển tiếp tục “sản sinh” giá trị thặng dư cho giai cấp tư sản.

Thứ ba, mâu thuẫn giữa các tổ chức độc quyền tư bản, giữa các công ty xuyên quốc gia, giữa các trung tâm quyền lực tư bản chủ nghĩa với nhau: Đây là mâu thuẫn nội bộ của chủ nghĩa tư bản, nó đã từng tồn tại trong suốt cả thế kỷ XX và vẫn tiếp diễn sang thế kỷ XXI. Chính mâu thuẫn này đã đẩy nhân loại lâm vào hai cuộc chiến tranh thế giới tàn khốc nhất trong lịch sử. Hiện tại, mâu thuẫn giữa các trung tâm quyền lực kinh tế tư bản chủ nghĩa gay gắt tới mức người ta đã dùng tới những thuật ngữ như: chiến tranh địa chính trị; chiến tranh cá thu, chiến tranh ôtô; chiến tranh nhôm, thép; chiến tranh vaccine… Đặc biệt, thời gian gần đây mâu thuẫn giữa Mỹ với Liên minh châu Âu [EU], giữa Mỹ với các nước tư bản khác trên các vấn đề thương mại, sự đóng góp tài chính cho các hoạt động quân sự… chính là liên minh trong mâu thuẫn đã được V.I.Lênin khái quát bằng cụm từ “liên minh chó sói”.

Thứ tư, mâu thuẫn giữa chủ nghĩa tư bản với chủ nghĩa xã hội và những vấn đề toàn cầu: Đầu những năm 90 của thế kỷ XX, sau khi mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, có người cho rằng chủ nghĩa xã hội không còn và như vậy, mâu thuẫn giữa chủ nghĩa tư bản với chủ nghĩa xã hội cũng không còn nữa. Trên thực tế, chủ nghĩa xã hội vẫn tồn tại ở một số quốc gia, vẫn là một thực thể kinh tế - chính trị - xã hội đối lập với chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa xã hội vẫn là một trào lưu chính trị - tư tưởng ở các nước tư bản, các nước có xu hướng dân tộc chủ nghĩa và ở ngay chính cả những nước mà chế độ xã hội chủ nghĩa đã bị tan rã cách đây trên dưới 3 thập niên. Đặc biệt, khi phần lớn những lợi nhuận của xã hội chỉ tập trung vào trong tay số ít các nhà tư bản, sự bất bình đẳng trong xã hội tiếp tục gia tăng thì những vấn đề toàn cầu đói nghèo, dịch bệnh, sự biến đổi của khí hậu, chiến tranh, tội phạm quốc tế… sẽ không thể giải quyết được một cách triệt để.

Nhận định về sự điều chỉnh, thích nghi chủ nghĩa tư bản đương đại, Thomas Piketty cho rằng: “Tăng trưởng kinh tế hiện đại và sự truyền bá tri thức đã giúp tránh được sự diệt vong theo quan quan điểm của Marx nhưng không giúp điều chỉnh những cấu trúc tư bản sâu xa và tình trạng bất bình đẳng - hay chí ít là không nhiều như người ta đã từng hình dung trong những thập niên lạc quan sau Thế chiến II" và “Chủ nghĩa tư bản tự động tạo ra tình trạng bất bình đẳng tùy tiện và không bền vững, làm xói mòn những giá trị trọng dụng nhân tài, vốn là nền tảng của các xã hội dân chủ[3]".

Đánh giá về bản chất của chủ nghĩa tư bản hiện nay, đồng thời khẳng định tại sao Việt Nam lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là duy nhất đúng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: "Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ không phải cạnh tranh bất công, "cá lớn nuốt cá bé" vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm. Chúng ta cần sự phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai, chứ không phải để khai thác, chiếm đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn độ và huỷ hoại môi trường. Và chúng ta cần một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về Nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của Nhân dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có".

Chính những giá trị tốt đẹp của chế độ mà Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nêu trên là bản chất đích thực của chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, đó cũng chính là mục tiêu, con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta đã lựa chọn và đang kiên định, kiên trì để từng bước hiện thực hóa./.

------------------------------------------------------------------

[1] Học viện Chính trị Công an nhân dân.

[2] Thomas Piketty, Tư bản thế kỷ XXI, Nxb trẻ, thành phố Hồ Chí Minh, 2021, tr.719-720.

[3] Thomas Piketty, Tư bản thế kỷ XXI, Nxb trẻ, thành phố Hồ Chí Minh, 2021, tr.10-11.

NĐT - PHM

Mục lục

  • 1 Lịch sử
    • 1.1 Chủ nghĩa tư bản nông nghiệp
    • 1.2 Chủ nghĩa trọng thương
    • 1.3 Chủ nghĩa tư bản công nghiệp
    • 1.4 Chủ nghĩa tư bản hiện đại
      • 1.4.1 Mối quan hệ với dân chủ
    • 1.5 Tính đa dạng của chủ nghĩa tư bản
  • 2 Đặc điểm kinh tế
    • 2.1 Nền kinh tế thị trường
    • 2.2 Động lực lợi nhuận
    • 2.3 Sở hữu tư nhân
    • 2.4 Cạnh tranh thị trường
    • 2.5 Tăng trưởng kinh tế
    • 2.6 Mua bán sức lao động
    • 2.7 Quân đội dự bị lao động
      • 2.7.1 Thành phần của dân số thặng dư tương đối
    • 2.8 Phương thức sản xuất
  • 3 Nguyên lý Cung - Cầu
    • 3.1 Điểm cân bằng thị trường
    • 3.2 Cân bằng từng phần
    • 3.3 Ước tính thực nghiệm
    • 3.4 Sử dụng cung và cầu trong kinh tế vĩ mô
  • 4 Vai trò của chính phủ
    • 4.1 Mối quan hệ với tự do chính trị
  • 5 Đặc điểm chính trị xã hội
  • 6 Các hình thái
    • 6.1 Chủ nghĩa tư bản tiên tiến
    • 6.2 Chủ nghĩa tư bản tài chính
    • 6.3 Chủ nghĩa trọng thương
    • 6.4 Kinh tế thị trường tự do
    • 6.5 Kinh tế thị trường xã hội
    • 6.6 Chủ nghĩa tư bản nhà nước
    • 6.7 Chủ nghĩa tư bản độc quyền
    • 6.8 Kinh tế hỗn hợp
    • 6.9 Khác
  • 7 Tích lũy tư bản
    • 7.1 Nền tảng chung
    • 7.2 Tập trung và tập trung hóa
    • 7.3 Tỷ lệ tích lũy
    • 7.4 Sự xoay vòng tích lũy tư bản từ sản xuất
    • 7.5 Tái tạo đơn giản và mở rộng
    • 7.6 Tích lũy tư bản như quan hệ xã hội
  • 8 Tiền công lao động
    • 8.1 Phân loại
  • 9 Đánh giá
  • 10 Quan hệ với chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa bảo thủ
  • 11 Đọc thêm
  • 12 Xem thêm
  • 13 Tham khảo
  • 14 Liên kết ngoài

Lịch sửSửa đổi

Bài chi tiết: Lịch sử chủ nghĩa tư bản

Chủ nghĩa tư bản đã bắt đầu tồn tại trên quy mô nhỏ trong nhiều thế kỷ[14] xuất hiện dưới dạng các hoạt động buôn bán, cho thuê và cho vay và đôi khi là ngành công nghiệp quy mô nhỏ với một số lao động làm công ăn lương. Đã có một lịch sử rất dài trong trao đổi hàng hóa đơn giản và sản xuất hàng hóa đơn giản, đó là nền tảng ban đầu cho sự phát triển của tư bản từ trao đổi thương mại. "Thời kỳ chủ nghĩa tư bản" theo Karl Marx có từ các thương gia thế kỷ 16 và các thành phố đô thị nhỏ.[15] Marx biết rằng lao động tiền lương đã tồn tại trên một quy mô nhỏ trong nhiều thế kỷ trước khi ngành công nghiệp tư bản chủ nghĩa. Các nước Hồi giáo đã sớm ban hành chính sách kinh tế tư bản, di cư sang châu Âu thông qua các đối tác thương mại từ các thành phố như Venice.[16] Chủ nghĩa tư bản trong hình thức hiện đại có thể được bắt nguồn từ sự xuất hiện của chủ nghĩa tư bản nông nghiệp và chủ nghĩa trọng thương trong thời kỳ Phục hưng.[17]

Các hình thức tư bản và trao đổi thương mại đã tồn tại nhiều năm trong phần lớn lịch sử, nhưng nó không dẫn đến sự công nghiệp hóa hay chi phối quá trình sản xuất của xã hội. Do nó đòi hỏi rất nhiều các điều kiện, bao gồm các công nghệ cụ thể về sản xuất hàng loạt, khả năng độc lập, tư nhân và buôn bán phương tiện sản xuất, một tầng lớp công nhân sẵn sàng bán sức lao động của mình để kiếm sống, khung pháp lý thúc đẩy thương mại, cơ sở vật chất cho phép lưu thông hàng hóa một quy mô lớn và an ninh cho sự tích lũy cá nhân. Nhiều điều kiện trong số này không tồn tại ở nhiều nước thế giới thứ ba, mặc dù có nhiều vốn và lao động. Những trở ngại cho sự phát triển của thị trường tư bản do đó ít kỹ thuật và xã hội, văn hóa và chính trị hơn..

Chủ nghĩa tư bản nông nghiệpSửa đổi

Bài chi tiết: Tư bản nông nghiệp

Nền tảng kinh tế của hệ thống nông nghiệp phong kiến bắt đầu thay đổi ở Anh thế kỷ 16 khi hệ thống trang ấp đã bị phá vỡ và đất đai bắt đầu trở nên tập trung trong tay một số địa chủ với lượng bất động sản ngày càng lớn. Thay vì một hệ thống nông nô dựa trên lao động, người lao động ngày càng được sử dụng như một phần của một nền kinh tế dựa vào trên nhuận. Hệ thống này gây áp lực lên cả địa chủ và người thuê đất để tăng năng suất nông nghiệp tạo ra lợi nhuận; sự suy yếu quyền lực cưỡng chế của tầng lớp quý tộc để trích xuất dư thừa nông dân khuyến khích họ thử các phương pháp sản xuất tốt hơn; và những người thuê đất cũng có động lực để cải thiện phương pháp của họ để phát triển mạnh trong một thị trường lao động cạnh tranh. Điều khoản thuê đất đã trở thành đối tượng của lực lượng kinh tế thị trường chứ không phải là hệ thống phong kiến trì trệ trước đây.[18][19]

Đến đầu thế kỷ 17, nước Anh là một nhà nước kinh tế tập trung, trong đó phần lớn các luật phong kiến Trung cổ châu Âu đã bị loại bỏ. Sự tập trung này được xây dựng bởi một hệ thống đường sá tốt và một thành phố thủ đô lớn, London. Thủ đô đóng vai trò là trung tâm thị trường trung tâm của cả nước, tạo ra một thị trường nội bộ rất lớn cho hàng hóa, tương phản với những cổ phần phong kiến bị phân tán chiếm ưu thế ở hầu hết các vùng của lục địa.

Chủ nghĩa trọng thươngSửa đổi

Bài chi tiết: Chủ nghĩa trọng thương

Xem thêm thông tin: Tư bản thương nghiệp

Một bức tranh của một cảng biển của Pháp từ năm 1638 ở đỉnh cao của chủ nghĩa trọng thương

Các học thuyết kinh tế hiện hành từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 18 thường được gọi là chủ nghĩa trọng thương.[15][20] Giai đoạn này, còn gọi thời kỳ khám phá, được kết hợp với cuộc thăm dò địa lý của các vùng đất nước ngoài của các thương nhân buôn bán, đặc biệt là từ Anh và các nước khác. Chủ nghĩa trọng thương là một hệ thống thương mại vì lợi nhuận, mặc dù hàng hóa vẫn chủ yếu sản xuất bằng phương pháp phi tư bản chủ nghĩa.[21] Hầu hết các học giả đều coi kỷ nguyên của chủ nghĩa tư thương gia và chủ nghĩa trọng thương là nguồn gốc của chủ nghĩa tư bản hiện đại,[22][23] mặc dù Karl Polanyi cho rằng dấu hiệu của chủ nghĩa tư bản là việc thành lập thị trường tổng quát cho những gì ông gọi là "hàng giả", ví dụ: đất đai, lao động và tiền bạc. Theo đó, ông lập luận rằng "không cho là đến năm 1834 một thị trường lao động cạnh tranh thành lập ở Anh, do đó chủ nghĩa tư bản công nghiệp như một hệ thống xã hội không thể cho là đã tồn tại trước ngày đó".[24]

Anh đã bắt đầu một phương pháp tiếp cận tích hợp và quy mô lớn đến chủ nghĩa trọng thương trong kỷ nguyên Elizabethan [1558–1603]. Một lời giải thích có hệ thống và mạch lạc về sự cân bằng thương mại đã được công bố thông qua tranh luận Kho báu của nước Anh của Thomas Mun bởi Forraign Trade, và cuốn The Balance of our Forraign Trade is The Rule of Our Treasure. Nó được viết vào những năm 1620 và xuất bản năm 1664.

Các thương gia châu Âu, được hỗ trợ bởi các nhà quản lý nhà nước, trợ cấp và độc quyền, kiếm được nhiều lợi nhuận nhất bằng cách mua và bán hàng hóa. Theo lời của Francis Bacon, mục đích của chủ nghĩa trọng thương là "sự mở cửa và cân bằng thương mại, sự trân trọng của các nhà sản xuất, loại bỏ sự biếng nhác, hạn chế chất thải và tránh lãng phí, cải thiện và chất lượng của đất; các quy định về giá [...]".[25]

Robert Clive sau trận Plassey, bắt đầu sự cai trị công ty Đông Ấn [đại diện của thực dân Anh] tại Ấn Độ

Công ty Đông Ấn của Anh và Công ty Đông Ấn Hà Lan đã khánh thành một kỷ nguyên mở rộng của thương mại và trao đổi mua bán.[26][27] Các công ty này được đặc trưng bởi việc đánh chiếm thuộc địa của họ, các quốc gia thuộc địa đã trao cho họ nhiều quyền lực.[26] Trong thời kỳ này, các thương gia, người đã giao dịch dưới sân khấu trước đó của chủ nghĩa trọng thương, vốn đầu tư trong công ty Đông Ấn và các thuộc địa khác, tìm kiếm một lợi nhuận đến từ đầu tư.

Thế kỷ XVIII-XIX là thời kỳ chủ nghĩa tư bản phát triển mạnh nhất, thúc đẩy sự phát triển khoa học kỹ thuật và tăng năng suất lao động, đã biến nhiều quốc gia trở thành các cường quốc kinh tế. Tuy nhiên nó cũng gây ra sự phân hóa xã hội sâu sắc, kể cả sự bóc lột nhân công thường thấy, chủ nghĩa thực dân ra đời cùng sự xâm chiếm thuộc địa và buôn bán nô lệ. Karl Marx viết[28]:

"Việc tìm thấy những mỏ vàng, mỏ bạc ở châu Mỹ, việc biến người dân bản xứ thành nô lệ, việc chôn vùi họ vào các hầm mỏ hoặc tuyệt diệt họ đi, những buổi đầu của cuộc chinh phục và cướp bóc ở Đông Ấn, việc biến châu Phi thành một vùng đất cấm thương mại dành riêng cho việc săn bắt người da đen, đấy là những biện pháp tích lũy nguyên thủy có tính chất báo hiệu bình minh của thời đại tư bản chủ nghĩa"

Bên cạnh việc bóc lột nhân công trong nước, các nhà tư bản cũng tăng cường bóc lột kinh tế các nước thuộc địa. Nhà kinh tế học nổi tiếng Utsa Patnaik, dựa trên dữ liệu chi tiết về thuế và mậu dịch thương mại trong gần hai thế kỷ, đã tính toán và đưa đến kết luận rằng, thực dân Anh đã bóc lột khoảng 45.000 tỷ USD [theo thời giá năm 2017] của Ấn Độ trong giai đoạn 1765 đến 1938, lớn gấp 17 lần GDP của nước Anh năm 2017. Sự bòn rút của Anh được thực hiện thông qua hệ thống độc quyền thương mại tại Ấn Độ do công ty Đông Ấn [East India Company] của Anh nắm quyền kiểm soát. Người dân Ấn Độ đã phải cung phụng để nước Anh phát triển. Cuộc cách mạng công nghiệp tại Anh phụ thuộc phần lớn vào những phi vụ chiếm đoạt có hệ thống ở Ấn Độ. Trong toàn bộ lịch sử 200 năm cai trị của Anh tại Ấn Độ, hầu như không có sự gia tăng thu nhập bình quân đầu người. Trong nửa cuối thế kỷ 19, thu nhập bình quân của dân Ấn Độ đã giảm một nửa, tuổi thọ trung bình của người Ấn giảm 20% từ năm 1870 đến 1920. Hàng chục triệu người đã chết đói do chính sách mà thực dân Anh gây ra[29].

Chủ nghĩa tư bản công nghiệpSửa đổi

Một động cơ hơi nước Watt: động cơ hơi nước được sử dụng nhiên liệu bằng than thúc đẩy cuộc cách mạng công nghiệp ở Vương quốc Anh [30]

Vào giữa thế kỷ 18, một nhóm các nhà lý thuyết kinh tế mới, do David Hume lãnh đạo[31] và Adam Smith, thách thức học thuyết trọng thương cơ bản, tin rằng sự giàu có của thế giới vẫn không đổi và một nhà nước chỉ có thể làm tăng sự giàu có của nó với chi phí của một nước khác.

Trong cuộc Cách mạng công nghiệp, công nghiệp thay thế các thương gia như một nhân tố chi phối trong hệ thống tư bản chủ nghĩa và ảnh hưởng sự suy giảm của các kỹ năng thủ công mỹ nghệ truyền thống của các nghệ nhân và người làm thuê. Cũng trong giai đoạn này, thặng dư được tạo ra bởi sự phát triển của thương mại nông nghiệp khuyến khích tăng cơ giới hóa nông nghiệp. Chủ nghĩa tư bản công nghiệp đánh dấu sự phát triển của hệ thống sản xuất của nhà máy, đặc trưng bởi một bộ phận lao động phức tạp giữa và trong quá trình làm việc và các công việc thường ngày; và cuối cùng đã thiết lập sự thống trị toàn cầu của chế độ tư bản sản xuất.[20]

Anh cũng từ bỏ chính sách bảo hộ của mình như là chấp nhận bởi chủ nghĩa trọng thương. Trong thế kỷ 19, Richard Cobden và John Bright, người dựa niềm tin của họ trên trường Manchester, đã khởi xướng một phong trào để giảm thuế.[32] Vào những năm 1840, Anh đã áp dụng chính sách bảo hộ ít hơn, với việc bãi bỏ Luật Ngô và Đạo luật Điều hướng.[20] Anh giảm thuế quan và hạn ngạch, phù hợp với sự ủng hộ của David Ricardo đối với thương mại tự do.

Chủ nghĩa tư bản hiện đạiSửa đổi

Tiêu chuẩn vàng đã hình thành cơ sở tài chính của nền kinh tế quốc tế từ 1870 đến 1914

Chủ nghĩa tư bản đã được mở rộng ra thế giới bởi các quá trình toàn cầu hóa và đến cuối thế kỷ 18 đã trở thành hệ thống kinh tế chiếm ưu thế.[33] Sau đó trong thế kỷ 20, chủ nghĩa tư bản đã vượt qua thách thức của các nền kinh tế kế hoạch tập trung và hiện là hệ thống bao trùm toàn cầu,[34][35] với nền kinh tế hỗn hợp là hình thức thống trị của nó trong thế giới công nghiệp hóa phương Tây.

Công nghiệp hóa cho phép sản xuất giá rẻ các mặt hàng gia dụng bằng cách sử dụng quy mô kinh tế trong khi tăng dân số nhanh tạo ra nhu cầu bền vững cho hàng hóa. Toàn cầu hoá trong giai đoạn này được định hình bởi chủ nghĩa đế quốc ở thế kỷ 18.[33]

Sau lần thứ nhất và chiến tranh nha phiến lần thứ hai và hoàn thành cuộc chinh phục Ấn Độ của Anh, quần thể rộng lớn của các khu vực này đã trở thành người tiêu dùng sẵn sàng xuất khẩu châu Âu. Cũng trong giai đoạn này, các khu vực của châu Phi cận Sahara và các đảo Thái Bình Dương được đưa vào hệ thống thế giới. Trong khi đó, cuộc chinh phục các khu vực mới trên thế giới, đặc biệt là châu Phi cận Sahara, châu Á mang lại nguồn tài nguyên thiên nhiên quý giá như cao su, kim cương và than và giúp đầu tư và thương mại nhiên liệu giữa các cường quốc châu Âu, các thuộc địa của họ và Hoa Kỳ:

Cư dân của London có thể gọi bằng điện thoại, nhấm nháp trà buổi sáng, các sản phẩm khác nhau trên thế giới, và mong đợi sớm giao hàng ngay trước cửa nhà mình. Chủ nghĩa quân phiệt và chủ nghĩa đế quốc của sự cạnh tranh chủng tộc và văn hóa ít hơn nhiều so với những thú vui của tờ báo hàng ngày của ông. Thật là một tập phim đặc biệt trong phát triển kinh tế của con người là tuổi mà đã kết thúc trong tháng 8 năm 1914.[36]

Trong giai đoạn này, hệ thống tài chính toàn cầu chủ yếu gắn liền với tiêu chuẩn vàng. Vương quốc Anh lần đầu tiên chính thức thông qua tiêu chuẩn này vào năm 1821. Chẳng bao lâu sau đó là Canada vào năm 1853, Newfoundland năm 1865, Hoa Kỳ và Đức [de jure] năm 1873. Các công nghệ mới, chẳng hạn như điện báo, cáp xuyên Đại Tây Dương, điện thoại vô tuyến, tàu hơi nước và hàng hóa được phép và đường sắt cho phép di chuyển khắp thế giới ở mức độ chưa từng có.[37]

Từ đầu thế kỷ XX trở đi, nhà nước tư bản chủ nghĩa từ chỗ hầu như không can thiệp vào nền kinh tế, thì lại can thiệp mạnh mẽ vào cơ chế thị trường, điều chỉnh thu nhập, sau đó là một quá trình quốc hữu hóa lớn diễn ra ở một số nước. Sự hình thành chủ nghĩa tư bản độc quyền do sự sáp nhập các doanh nghiệp tạo nên các tập đoàn kinh tế gần như không chịu sự cạnh tranh mang tính tự nhiên cũng là một đặc điểm trong giai đoạn thứ ba này. Thời kỳ này, theo nhận định của Lenin, chủ nghĩa tư bản đã trở thành chủ nghĩa đế quốc, tạo nguồn gốc cho cuộc xung đột toàn cầu đầu tiên là thế chiến thứ nhất.

Sàn giao dịch chứng khoán New York [1963]

Trong giai đoạn sau cuộc khủng hoảng toàn cầu của những năm 1930, nhà nước đóng một vai trò ngày càng nổi bật trong hệ thống tư bản trên khắp thế giới. Sự bùng nổ sau chiến tranh đã kết thúc vào cuối những năm 1960 và đầu những năm 1970 và tình hình đã trở nên tồi tệ hơn do sự gia tăng của lạm phát.[38] Chủ nghĩa tiền tệ, một bản sửa đổi của Kinh tế học Keynes tương thích hơn với laissez-faire, đã làm tăng uy tín lớn trên thế giới của tư bản chủ nghĩa, đặc biệt là dưới sự lãnh đạo của Ronald Reagan tại Hoa Kỳ và Margaret Thatcher ở Vương quốc Anh trong những năm 1980. Lợi ích công cộng và chính trị bắt đầu chuyển từ cái gọi là quan điểm tập thể về chủ nghĩa tư bản được quản lý của Keynes tập trung vào lựa chọn cá nhân, được gọi là "chủ nghĩa tư bản tái cơ cấu".[39]

Theo học giả Harvard Shoshana Zuboff, một chi mới của chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa tư bản giám sát, kiếm tiền từ dữ liệu thu được thông qua giám sát.[40][41][42] Cô khẳng định nó lần đầu tiên được phát hiện và củng cố tại Google, nổi lên do sự "khớp nối của các cường quốc lớn của kỹ thuật số với sự thờ ơ triệt để và tự đại nội tại của chủ nghĩa tư bản tài chính và tầm nhìn tự do mới của nó đã thống trị thương mại trong vòng ít nhất ba thập kỷ, đặc biệt trong nền kinh tế Anglo"[41] và phụ thuộc vào kiến trúc toàn cầu về hòa giải máy tính tạo ra một biểu hiện quyền lực mới được phân phối và phần lớn không được nhắc đến mà cô gọi là "Big Other".[43]

Nhìn chung bức tranh của chủ nghĩa tư bản hiện đại có thể là một quá trình đan xen nhau giữa tư hữu hóa ["tư bản hóa"] hay quốc hữu hóa ["xã hội hóa", "Nhà nước hóa"] ở các quốc gia, mà nguyên nhân từ sự lên cầm quyền của các lực lượng cánh tả ủng hộ chủ nghĩa xã hội, bao gồm cả những người tự do cánh tả, hay các lực lượng cánh hữu hay cánh tả thiên hữu nhưng các đặc điểm cơ bản của nó là tự do kinh doanh và cạnh tranh trên thị trường ["mạnh được yếu thua"] và những người cánh tả ủng hộ - quy luật kinh tế của chủ nghĩa tư bản từ khởi nguồn nguyên thủy thì luôn tồn tại trừ một số quốc gia trong một số giai đoạn. Sự xuất hiện các hình thức công ty cổ phần bao gồm cả cổ phần của Nhà nước, hay hình thức hợp tác cổ phần, ngày nay với xu hướng toàn cầu hóa các nước chủ nghĩa xã hội dần cải cách mở cửa kinh tế, chuyển từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường cùng với các hiệp định thương mại tự do làm cho sự phân biệt giữa chủ nghĩa tư bản hiện đại và chủ nghĩa xã hội trở nên mờ nhạt đi, không còn rạch ròi như trước.

Mối quan hệ với dân chủSửa đổi

Mối quan hệ giữa dân chủ và chủ nghĩa tư bản là một lĩnh vực mang tính tranh cãi về lý thuyết và trong các phong trào chính trị phổ biến. Việc mở rộng quyền bầu cử phổ biến cho nam giới ở thế kỷ 19 ở Anh xảy ra cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản và dân chủ công nghiệp đã trở nên phổ biến đồng thời với chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa tư bản để tạo ra mối quan hệ nhân quả hoặc tương hỗ giữa họ.[44] Tuy nhiên, theo một số tác giả trong chủ nghĩa tư bản thế kỷ 20 cũng đi kèm một loạt các thành phần chính trị khá khác biệt với các nền dân chủ tự do, bao gồm các chế độ phát xít, chế độ quân chủ tuyệt đối và các quốc gia độc đảng.[20] Lý thuyết hòa bình dân chủ khẳng định rằng nền dân chủ hiếm khi chống lại các nền dân chủ khác, nhưng các nhà phê bình của lý thuyết đó cho rằng điều này có thể là do sự giống nhau về chính trị hay ổn định hơn là vì họ là dân chủ hay tư bản. Các nhà phê bình trung bình cho rằng mặc dù tăng trưởng kinh tế theo chủ nghĩa tư bản đã dẫn đến nền dân chủ trong quá khứ, nhưng không thể làm như vậy trong tương lai..[45][46]

Một trong những người ủng hộ lớn nhất của ý tưởng rằng chủ nghĩa tư bản thúc đẩy tự do chính trị, Milton Friedman, lập luận rằng chủ nghĩa tư bản cạnh tranh cho phép quyền lực kinh tế và chính trị được tách biệt, đảm bảo rằng họ không đụng độ với nhau. Các nhà phê bình vừa phải đã thách thức điều này, nói rằng các nhóm vận động hành lang ảnh hưởng hiện tại đã có chính sách tại Hoa Kỳ là một mâu thuẫn, do sự chấp thuận của công dân United. Điều này đã khiến mọi người đặt câu hỏi về ý tưởng rằng chủ nghĩa tư bản cạnh tranh thúc đẩy tự do chính trị. Phán quyết về công dân United cho phép các công ty chi tiêu số tiền không được tiết lộ và không được kiểm soát về các chiến dịch chính trị, chuyển đổi kết quả thành lợi ích và phá hoại nền dân chủ thực sự. Như được giải thích trong các tác phẩm của Robin Hahnel, trung tâm của hệ thống thị trường tự do là khái niệm về tự do kinh tế và những người ủng hộ đó đánh đồng nền dân chủ kinh tế với tự do kinh tế và tuyên bố rằng chỉ có hệ thống thị trường tự do mới có thể cung cấp tự do kinh tế. Theo Hahnel, có một vài phản đối về tiền đề rằng chủ nghĩa tư bản cung cấp tự do thông qua tự do kinh tế. Những phản đối này được hướng dẫn bởi những câu hỏi quan trọng về ai hoặc quyết định nào mà quyền tự do của họ được bảo vệ nhiều hơn. Thông thường, câu hỏi về sự bất bình đẳng được đưa ra khi thảo luận về chủ nghĩa tư bản thúc đẩy nền dân chủ tốt như thế nào. Một lập luận có thể đứng là tăng trưởng kinh tế có thể dẫn đến sự bất bình đẳng vì vốn có thể thu được ở các mức độ khác nhau bởi những người khác nhau. Trong thủ đô của thế kỷ 21, Thomas Piketty thuộc trường Kinh tế Paris khẳng định rằng sự bất bình đẳng là hậu quả không thể tránh khỏi của tăng trưởng kinh tế trong nền kinh tế tư bản và sự tập trung kết quả của cải có thể làm mất ổn định xã hội dân chủ và làm suy yếu lý tưởng của công lý xã hội, nơi chúng được xây dựng.[47]

Các quốc gia có hệ thống kinh tế tư bản đã phát triển mạnh theo các chế độ chính trị được cho là độc tài hoặc áp bức. Singapore có một nền kinh tế thị trường mở thành công nhờ vào môi trường cạnh tranh, kinh doanh thân thiện và luật lệ mạnh mẽ của nó. Tuy nhiên, hệ thống chính trị Singapore thường được cho là: [1] Bị kiểm soát chặt chẽ bởi chính phủ, mặc dù trên danh nghĩa đó là nhà nước dân chủ và là một trong số những nước ít tham nhũng nhất,[48] nó cũng hoạt động chủ yếu dưới sự cai trị của một đảng; và [2] Không bảo vệ quyền tự do ngôn luận một cách mạnh mẽ, vì báo chí do chính phủ kiểm soát, cũng như thiên hướng bảo vệ pháp luật bảo vệ hòa bình dân tộc và tôn giáo, nhân phẩm tư pháp và danh tiếng cá nhân. Cũng như vậy, khu vực tư nhân [tư bản] tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã phát triển theo cấp số nhân và phát triển mạnh kể từ khi thành lập, mặc dù có một chính phủ mà phương Tây cho là độc tài. Sự cai trị của nhà độc tài Augusto Pinochet ở Chile dẫn đến tăng trưởng kinh tế và mức độ bất bình đẳng cao[49] bằng cách sử dụng các phương tiện độc tài để tạo môi trường an toàn cho đầu tư và chủ nghĩa tư bản.

Tính đa dạng của chủ nghĩa tư bảnSửa đổi

Peter A. Hall và David Soskice lập luận rằng các nền kinh tế hiện đại đã phát triển hai hình thức chủ nghĩa tư bản khác nhau: nền kinh tế thị trường tự do [hoặc LME] [ví dụ như Hoa Kỳ, Anh, Canada, New Zealand và Ireland] và các nền kinh tế thị trường [CME] [ví dụ: Đức, Nhật Bản, Thụy Điển và Áo]. Hai loại này có thể được phân biệt theo cách chính mà các công ty phối hợp với nhau và các tác nhân khác, chẳng hạn như công đoàn. Trong các LME, các công ty chủ yếu phối hợp các nỗ lực của họ bằng cách phân cấp và cơ chế thị trường. Các nền kinh tế thị trường phối hợp dựa nhiều hơn vào các hình thức tương tác phi thị trường trong việc phối hợp mối quan hệ của họ với các tác nhân khác [để mô tả chi tiết xem các giống chủ nghĩa tư bản]. Hai hình thức tư bản này đã phát triển các quan hệ công nghiệp khác nhau, đào tạo nghề và giáo dục, quản trị doanh nghiệp, quan hệ giữa các công ty và quan hệ với nhân viên. Sự tồn tại của các hình thức chủ nghĩa tư bản khác nhau này có tác động xã hội quan trọng, đặc biệt là trong thời kỳ khủng hoảng và bất ổn. Từ đầu những năm 2000, số lượng người ngoài thị trường lao động đã phát triển nhanh chóng ở châu Âu, đặc biệt là trong giới trẻ, có khả năng ảnh hưởng đến sự tham gia của xã hội và chính trị. Sử dụng các lý thuyết tư bản chủ nghĩa, có thể giải quyết các ảnh hưởng khác nhau đến sự tham gia của xã hội và chính trị mà sự gia tăng của người ngoài thị trường lao động có nền kinh tế thị trường tự do và phối hợp [Ferragina và cộng sự, 2016].[50] Sự bất ổn xã hội và chính trị, đặc biệt là trong giới trẻ, dường như rõ ràng hơn trong tự do hơn so với các nền kinh tế thị trường phối hợp. Điều này cho thấy một vấn đề quan trọng đối với nền kinh tế thị trường tự do trong thời kỳ khủng hoảng. Nếu thị trường không cung cấp cơ hội việc làm phù hợp [như trong những thập kỷ trước], những thiếu sót của các hệ thống an sinh xã hội tự do có thể làm giảm sự tham gia xã hội và chính trị hơn cả ở các nền kinh tế tư bản khác nhau.

Mục lục

  • 1 Đặc điểm
  • 2 Quan niệm
  • 3 Sứ mệnh lịch sử
    • 3.1 Quan điểm
    • 3.2 Khái niệm
    • 3.3 Nội dung
    • 3.4 Điều kiện quy định
      • 3.4.1 Về khách quan
      • 3.4.2 Về chủ quan
  • 4 Chủ nghĩa quốc tế
    • 4.1 Khái niệm
    • 4.2 Nội dung
    • 4.3 Cơ sở hình thành
    • 4.4 Chủ thể thực hiện
    • 4.5 Hình thức
  • 5 Chú thích

Phủ nhận lý luận về hàng hóa sức lao động của C. Mác hay trò xảo biện che đậy bản chất bóc lột giá trị thặng dư của chủ nghĩa tư bản hiện đại

Lý luận hàng hóa sức lao động của C. Mác là cơ sở của học thuyết giá trị thặng dư - hòn đá tảng của lý luận kinh tế chính trị của C. Mác. Tuy nhiên, vẫn còn có một số quan điểm hoài nghi, phê phán, phủ nhận phi lý lý luận hàng hóa sức lao động của C. Mác. Bài viết dưới đây góp phần phân tích và luận chứng một cách khoa học để, một mặt, phê phán những quan điểm cho rằng lý luận hàng hóa sức lao động của C. Mác đã lỗi thời; mặt khác, chứng minh một cách thuyết phục rằng, lý luận hàng hóa sức lao động của C. Mác không hề lỗi thời, mất tác dụng.

Những lập luận phi lý phủ nhận lý luận hàng hóa sức lao động của C. Mác

Trong Lời tựa tác phẩm“Tư bản”, C. Mác viết: “Đối tượng nghiên cứu của tôi là phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và những quan hệ sản xuất và trao đổi thích ứng với phương thức ấy”[1]; “Mục đích cuối cùng của tác phẩm này là tìm ra quy luật vận động kinh tế của xã hội hiện đại”[2]. Khi nghiên cứu phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ở nước Anh, C. Mác khẳng định: “Sản xuất giá trị thặng dư hay lợi nhuận là quy luật tuyệt đối của phương thức sản xuất này”[3]. Vì thế, học thuyết giá trị thặng dư của C. Mác ngay từ khi mới ra đời đã vấp phải sự phê phán, phản bác của không ít những người biện hộ và bảo vệ chủ nghĩa tư bản.

Phân tích nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, C. Mác đã chỉ ra rằng, giá trị hàng hóa trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa bao gồm giá trị những tư liệu sản xuất đã được tiêu dùng chuyển sang sản phẩm mới [giá trị cũ tái hiện - ký hiệu là c] và lượng giá trị mới do lao động sống thêm vào [giá trị mới tạo ra - ký hiệu là v + m], trong đó v bù lại tư bản khả biến đã ứng ra để trả tiền công [ngang với giá trị sức lao động] và m là giá trị thặng dư - phần giá trị dôi ra ngoài giá trị sức lao động và bị nhà tư bản chiếm dụng. Như vậy, nguồn gốc của giá trị thặng dư là do lao động sống tạo ra.

Công nhân làm việc trong một nhà máy ở Mỹ năm 1900_Ảnh: getty images

Tuy nhiên, những người phê phán, phản bác học thuyết giá trị thặng dư của C. Mác cho rằng, quy luật sản xuất giá trị thặng dư, nguồn gốc giá trị thặng dư do lao động sống tạo ra chỉ đúng với trình độ phát triển thấp của chủ nghĩa tư bản - khi máy móc còn thô sơ và lao động thủ công, giản đơn chiếm ưu thế. Họ luận giải rằng, trong bối cảnh phát triển mới của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, việc ứng dụng máy móc ngày càng trở nên phổ biến, sự phát triển nhanh chóng của khoa học - kỹ thuật, tự động hóa sản xuất khiến số lượng và cường độ của thể lực cần tiêu hao trong sản xuất ngày càng giảm đi; tự động hóa dường như đã làm thay đổi về tính chất quan hệ giữa lao động quá khứ và lao động sống; nó đã đạt đến mức cái quyết định sức sản xuất không còn là hàng hóa riêng lẻ, mà là máy móc; giá trị còn được tạo ra từ những nguồn khác nữa... Điều đó hàm ý rằng, máy móc đã làm thay đổi tính chất của mối quan hệ giữa lao động quá khứ và lao động sống, bởi vì máy móc đã được sử dụng phổ biến và thay thế cho sức lao động giản đơn, nguồn gốc của giá trị thặng dư là do máy móc chứ không phải do lao động sống tạo ra. Vì máy móc được sử dụng một cách phổ biến nên một số ý kiến cho rằng, khái niệm sức lao động không thể kiểm chứng một cách cụ thể trên thực tế và không thể tìm ra được một cột mốc nào để định lượng, tính toán về phương diện kinh tế.

Cùng với đó, những người phê phán, phản bác học thuyết giá trị thặng dư của C. Mác còn cho rằng, trong nền kinh tế thị trường hiện đại, số giờ làm việc trung bình của người lao động không đóng vai trò quan trọng, mà là tổng hợp nhiều yếu tố với nhau: phương tiện máy móc mà họ sử dụng, quy trình trong chuỗi sản xuất, môi trường làm việc...; giá trị sử dụng thực tế sản sinh từ một giờ lao động của hai người lao động chênh lệch nhau, xuất phát chủ yếu từ kỹ năng cao hay thấp của họ, tiếng tăm của họ, tác dụng cảm tính lên người sử dụng lao động, và thêm nhiều yếu tố khác.

Như vậy, những người phản bác, phủ nhận lý luận hàng hóa sức lao động của C. Mác cho rằng, giá trị thặng dư mà nhà tư bản có được không phải do bóc lột sức lao động của công nhân, mà là phần của nhà tư bản được hưởng do công lao tổ chức, quản lý sản xuất... Đây là khâu không thể thiếu trong quá trình sản xuất, nên cũng giống như các loại lao động sản xuất hàng hóa khác, nhà tư bản đóng vai trò là người gián tiếp tạo ra của cải vật chất; trong khi mọi loại “lao động quản lý”, “lao động trí tuệ cao không ai có thể thay thế được”, cho nên, dĩ nhiên là nhà tư bản sẽ được hưởng tiền công “xứng đáng”.

Hơn thế nữa, họ còn cho rằng, chủ nghĩa tư bản có bóc lột sức lao động của công nhân hay không, điều đó không quan trọng bằng đời sống vật chất và tinh thần không chỉ của công nhân mà của tất cả mọi người trong xã hội tư bản đều được nâng cao, sự hưởng thụ ngày càng nhiều. Ngoài tiền công, người lao động còn được hưởng thu nhập từ lợi tức cổ phần [tức là thêm nhiều nguồn thu thông qua đóng góp cổ phần], phúc lợi xã hội, các tổ chức từ thiện và sự hỗ trợ của nhà nước tư sản.

Cần phê phán, bác bỏ các quan điểm phủ nhận lý luận hàng hóa sức lao động của C. Mác

Điểm thứ nhất, về nguồn gốc của giá trị thặng dư.

Rõ ràng, C. Mác không phải là người đầu tiên phát hiện ra lao động thặng dư. Kế thừa quan điểm của các nhà kinh tế trước đó, C. Mác không những phát hiện ra giá trị thặng dư [lao động thặng dư kết tinh dưới hình thái giá trị], mà còn vạch rõ mối quan hệ giữa năng suất lao động, lao động thặng dư và giá trị thặng dư. Ông cũng chỉ rõ điều khác biệt, trong chủ nghĩa tư bản, việc chiếm đoạt lao động thặng dư của người công nhân làm thuê không thực hiện bằng cách cưỡng bức trực tiếp mà thông qua quan hệ hàng hóa - tiền tệ, trong đó có mua bán hàng hóa sức lao động, nên việc chiếm đoạt lao động thặng dư được thực hiện dưới hình thái chiếm đoạt giá trị thặng dư. Nguồn gốc tạo ra giá trị thặng dư là sức lao động của công nhân làm thuê. Chỉ có lao động sống [sức lao động đang hoạt động] của họ mới tạo ra giá trị, trong đó có giá trị thặng dư. Nguồn gốc của giá trị thặng dư là sự tiêu dùng sức lao động kéo dài ngoài thời gian tái sản xuất ra giá trị của nó, có nghĩa là vượt quá thời gian lao động tất yếu để bù đắp lại giá trị sức lao động [được tính bằng tiền công].

Với sự phát triển của khoa học - công nghệ hiện đại, những nhân tố chủ yếu trong sản xuất của xã hội công nghiệp [đất đai, lao động, nguyên liệu, vốn] dần trở thành thứ yếu, tri thức ngày càng trở thành yếu tố quyết định trong nền sản xuất hiện đại. Dường như lý lẽ bác bỏ lý luận giá trị thặng dư có vẻ “thuyết phục” hơn, bởi chủ nghĩa tư bản nếu còn bóc lột thì chỉ bóc lột “người máy”, vì trong các xí nghiệp hiện đại, quá trình sản xuất ra sản phẩm không cần hoặc cần rất ít lao động sống, nhưng giá trị do các xí nghiệp này tạo ra tăng gấp bội so với các xí nghiệp cổ điển dùng rất nhiều lao động sống. Về điểm này, C. Mác đã phân tích: “Giống như bản thân hàng hóa là sự thống nhất giữa giá trị sử dụng và giá trị, quá trình sản xuất hàng hóa cũng phải là một sự thống nhất giữa quá trình lao động và quá trình tạo ra giá trị”[4]. Quá trình lao động nào cũng bao gồm ba nhân tố chủ yếu là lao động có mục đích của con người, đối tượng lao động và tư liệu lao động [trong đó quan trọng hơn cả là công cụ lao động]. Sử dụng máy móc càng hiện đại bao nhiêu thì sức sản xuất của lao động càng cao, do đó, trong cùng một đơn vị thời gian làm ra càng nhiều giá trị sử dụng. Tuy nhiên, khi xét quá trình tạo ra và làm tăng giá trị của hàng hóa, tức là quá trình lao động được kéo dài quá cái điểm mà người ta chỉ tái sản xuất ra một vật ngang giá với giá trị của sức lao động và kết hợp nó vào đối tượng lao động, thì những hàng hóa tham gia vào đây không còn được xét với tư cách là những nhân tố vật thể nữa, mà chỉ được coi là những lượng lao động đã vật hóa nhất định.

Như vậy, nhờ hoạt động của sức lao động, không những giá trị của bản thân nó được tái sản xuất ra, mà một giá trị dôi ra cũng được sản xuất ra nữa. Phần ngày lao động trong việc tái sản xuất diễn ra, C. Mác gọi là thời gian lao động cần thiết và thời kỳ thứ hai của quá trình lao động, tức là thời kỳ trong đó người công nhân lao động quá những giới hạn của lao động cần thiết nhưng không tạo ra một giá trị nào cho người công nhân. Phần ngày lao động đó là thời gian lao động thặng dư và lao động chi phí trong khoảng thời gian đó là lao động thặng dư.

C. Mác đã chỉ rõ sự khác nhau giữa quá trình sản xuất ra giá trị và quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư hay mối quan hệ giữa năng suất lao động, lao động thặng dư và giá trị thặng dư qua ví dụ: “Giả định rằng một phát minh nào đó cho phép người kéo sợi có thể kéo trong 6 giờ một lượng bông trước kia phải kéo trong 36 giờ. Với tư cách là một hoạt động sản xuất có mục đích và có ích thì lao động của người kéo sợi đã tăng sức mạnh của nó lên gấp 6 lần. Sản phẩm của người đó cũng tăng lên gấp 6 lần: 36 pao sợi chứ không phải 6 pao nữa. Nhưng 36 pao bông ấy bây giờ cũng chỉ thu hút một thời gian lao động như 6 pao trước kia. Chúng được gắn thêm một số lao động mới 6 lần ít hơn so với những phương pháp trước kia, vì vậy giá trị mới thêm vào cũng chỉ bằng một phần sáu so với trước. Mặt khác, trong sản phẩm, trong 36 pao sợi, bây giờ lại có một giá trị bông gấp 6 lần”[5]. Điều đó có nghĩa rằng, giá trị do người công nhân kết hợp thêm vào mà càng nhiều [năng suất lao động tăng] thì giá trị do người công nhân bảo toàn được lại càng lớn. Tuy nhiên, C. Mác cũng khẳng định, chỉ khi nào xã hội loài người phát triển đến một giai đoạn lịch sử nhất định, trên cơ sở năng suất lao động phát triển đến một trình độ nhất định thì người lao động mới có thể cung cấp lao động thặng dư và sản phẩm thặng dư.

Việc áp dụng máy móc hiện đại vẫn không làm thay đổi bản chất bóc lột giá trị thặng dư của chủ nghĩa tư bản hiện đại_Ảnh: Tư liệu

Máy móc và lao động trí tuệ có vai trò như thế nào trong quá trình sản xuất? Vì sao khi sử dụng máy móc hiện đại, tiên tiến lại thu được lợi nhuận siêu ngạch?Ngày nay, việc ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ vào quá trình sản xuất, tự động hóa sản xuất làm thay đổi quá trình sản xuất. Giá trị hàng hóa ngày càng ít dựa vào lao động thể lực của người sản xuất, thay vào đó, ngày càng dựa nhiều vào lao động trí tuệ. Lao động thể lực của công nhân giảm đi, nhưng lao động trí tuệ phải bỏ ra nhiều hơn. Trong toàn bộ quá trình đó, khoa học - kỹ thuật, tri thức, thông tin phát huy vai trò to lớn, nhưng suy đến cùng, chúng đều là sản phẩm của lao động trí óc mang tính sáng tạo của con người. Doanh nghiệp nào đi đầu trong việc ứng dụng công nghệ mới, làm tăng sức sản xuất của lao động, do đó, giá trị cá biệt của hàng hóa của doanh nghiệp ấy thấp hơn so với giá trị thị trường, và khi bán hàng hóa doanh nghiệp đó sẽ thu được lợi nhuận siêu ngạch. Khi công nghệ đó trở nên phổ biến, các đối thủ cạnh tranh đã đuổi kịp trình độ công nghệ, thì lợi thế cạnh tranh giảm, giá trị thị trường hạ xuống, hàng hóa rẻ đi, doanh nghiệp từng đi đầu trong ứng dụng công nghệ mới sẽ không còn thu được lợi nhuận siêu ngạch nữa.

Như vậy, công nghệ tiên tiến, hiện đại sẽ làm tăng sức sản xuất của lao động, hạ thấp giá trị cá biệt của hàng hóa so với giá trị thị trường, nhưng trên thị trường thông qua cạnh tranh lại bán theo giá thị trường, do đó thu được lợi nhuận siêu ngạch. Việc thu lợi nhuận siêu ngạch diễn ra qua cạnh tranh giữa những người sản xuất hàng hóa trên thị trường, chứ không phải trong sản xuất.Do đó, nếu chỉ quan sát các hiện tượng, biểu hiện bề ngoài thì dễ lẫn lộn giữa việc sản xuất giá trị thặng dư và phân phối giá trị thặng dư. Máy móc không phải là nguồn gốc sinh ra giá trị siêu ngạch, mà chỉ là điều kiện để thu được lợi nhuận siêu ngạch thông qua cạnh tranh trên thị trường. Hệ thống cơ khí tự động chỉ là công cụ lao động, là tư bản bất biến, do đó, dù máy móc quan trọng đến đâu, nhưng nếu không có người sản xuất sử dụng nó trong quá trình sản xuất, thì nó chẳng những không có cách gì để chuyển dịch giá trị tự thân của mình, chứ đừng nói đến việc làm sinh sôi được giá trị hàng hóa. Vì thế, C. Mác đã chỉ rõ: “Một tư liệu sản xuất không bao giờ chuyển vào sản phẩm một giá trị nhiều hơn giá trị mà nó đã mất đi trong quá trình lao động do giá trị sử dụng của bản thân nó bị hủy hoại đi. Nếu tư liệu sản xuất đó không có một giá trị nào để mất đi cả, nghĩa là nếu bản thân nó không phải là sản phẩm lao động của con người, thì nó sẽ không thể chuyển một giá trị nào vào sản phẩm cả”[6].

Đồng thời, C. Mác chưa bao giờ phủ nhận vai trò quan trọng của tư liệu lao động trong quá trình sản xuất ra hàng hóa. Điều này được chứng minh rõ ở luận điểm của C. Mác khi trình bày sự hình thành giá trị và làm tăng thêm giá trị. Theo đó, C. Mác nhấn mạnh, tiền đề của nó là tư liệu sản xuất [nguyên liệu và tư liệu lao động] không thể thiếu của sản xuất giá trị thặng dư. Vai trò của máy móc như chiếc bình cổ cong trong quá trình hóa học. Nếu không có bình cổ cong thì không thể diễn ra các phản ứng hóa học, nhưng bản thân bình cổ cong chỉ là điều kiện cho phản ứng hóa học diễn ra chứ không trực tiếp tham gia vào phản ứng ấy. Theo đà phát triển của đại công nghiệp, việc tạo ra của cải thực sự trở nên ít phụ thuộc vào thời gian lao động và số lượng lao động hao phí hơn là phụ thuộc vào những tác nhân được đưa vào vận dụng trong suốt thời gian lao động, và bản thân những tác nhân, đến lượt mình [với hiệu suất lớn của chúng], lại tuyệt đối không tương xứng với thời gian lao động trực tiếp cần thiết để sản xuất ra chúng, mà nói đúng hơn, chúng tùy thuộc vào trình độ chung của khoa học và vào bước tiến bộ của kỹ thuật, hay phụ thuộc vào việc vận dụng khoa học và tiến bộ kỹ thuật ấy vào sản xuất.

Tình hình mới của phát triển sản xuất không hề làm thay đổi sự thật là lao động tạo ra giá trị. Sự phát triển của khoa học - kỹ thuật hiện đại chỉ thúc đẩy sự thay đổi cấu thành hữu cơ của tư bản [tỷ lệ giữa tư bản bất biến và tư bản khả biến], chứ không thể làm thay đổi thực tế sự phát triển kinh tế của chủ nghĩa tư bản đương đại, nghĩa là nền kinh tế tư bản chủ nghĩa hiện đại vẫn phải dựa vào việc theo đuổi giá trị thặng dư. Hơn nữa, khi người lao động trí óc sáng tạo và sử dụng khoa học - kỹ thuật, họ cũng phải bỏ ra rất nhiều sức lao động. Trong quá trình sản xuất hiện đại hóa, số lượng người lao động trí óc tăng lên rất nhiều; họ cũng bị nhà tư bản thuê và sáng tạo ra một lượng lớn giá trị thặng dư.

Từ những luận điểm trên của C. Mác, có thể khẳng định, các quan điểm phê phán rằng C. Mác chưa đề cập đến vai trò của máy móc, tư liệu lao động trong quá trình sản xuất, lao động trí tuệ là không có cơ sở. Sở dĩ có nhận thức sai lầm nói trên là do chưa phân biệt được vai trò của máy móc với tư cách là nhân tố của quá trình lao động và vai trò của máy móc với tư cách là nhân tố của quá trình làm tăng giá trị.

Điểm thứ hai,phải chăng lý luận hàng hóa sức lao động của C. Mác chưa đề cập đến vai trò của lao động quản lý, lao động kỹ thuật, lao động phức tạp?

Ngày nay, lao động trực tiếp là những nhà quản lý, những người điều khiển quá trình sản xuất, mà C. Mác ví như “nhạc trưởng” của một dàn nhạc. Ông nhấn mạnh: “Trong tất cả những công việc mà có nhiều người hợp tác với nhau thì mối liên hệ chung và sự thống nhất của quá trình tất phải biểu hiện ra ở trong một ý chí điều khiển và trong những chức năng không có quan hệ với những công việc bộ phận, mà quan hệ với toàn bộ hoạt động của công xưởng, cũng giống như trường hợp nhạc trưởng của một dàn nhạc vậy. Đó là một thứ lao động sản xuất cần phải được tiến hành trong một phương thức sản xuất có tính chất kết hợp”[7]. Bằng phương pháp trừu tượng hóa khoa học, C. Mác giả định coi mọi loại sức lao động như là một sức lao động giản đơn và coi lao động phức tạp là bội số của lao động giản đơn, có nghĩa là một lượng lao động phức tạp nhỏ hơn thì tương đương với một lượng lao động giản đơn lớn hơn. “Những tỷ lệ khác nhau theo đó các loại lao động khác nhau được quy thành lao động giản đơn,... - những tỷ lệ khác nhau ấy được xác định bởi một quá trình xã hội diễn ra ở đằng sau lưng những người sản xuất”[8]. Định nghĩa về sức lao động của C. Mác[9]cũng đã chỉ rõ, đó là toàn bộ năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong một cơ thể, trong một con người đang sống, tức là cả lao động cơ bắp và lao động trí tuệ. Trong điều kiện là doanh nghiệp nhỏ thì nhà tư bản kiêm cả hai, tức là vừa là chủ sở hữu tư bản, vừa là nhà quản lý, do đó nhà tư bản thu được cả giá trị thặng dư và tiền công của mình. Khi thành công ty lớn thì nhà tư bản đi thuê những người quản lý [managers]. Như vậy, không thể nhầm lẫn khoản thu nhập của nhà tư bản với tư cách là nhà quản lý [tiền công, tiền lương] với thu nhập của nhà tư bản với tư cách là chủ sở hữu. Sự nhầm lẫn này dẫn đến quan niệm thu nhập của nhà tư bản, sự giàu có của họ là do lao động quản lý đem lại. Vì thế, cần phân biệt nếu tư bản là nhà quản lý, lao động trực tiếp tạo ra giá trị thặng dư thì thu nhập của họ là tiền công. Lao động quản lý là lao động phức tạp, do đó thu nhập cao hơn lao động giản đơn. Và do vậy, không có cơ sở để khẳng định trong lý luận hàng hóa sức lao động, C. Mác không đề cập đến vai trò của lao động trí tuệ, lao động quản lý.

Điểm thứ ba,phải chăng chủ nghĩa tư bản không còn bóc lột lao động làm thuê?

Ngày nay, chủ nghĩa tư bản đã có sự điều chỉnh lớn, do đó, có quan điểm cho rằng chủ nghĩa tư bản không còn bóc lột lao động làm thuê và đề cao, thổi phồng kết quả, điều kiện sống mà người lao động được thụ hưởng. Thực tế, cơ chế điều tiết phân phối giá trị thặng dư của các nhà tư bản được thực hiện thông qua thuế, quỹ phúc lợi xã hội, bảo hiểm xã hội, trợ cấp thất nghiệp... Một bộ phận công nhân có cổ phần, là cổ đông trong các công ty cổ phần; họ đầu tư dưới hình thức mua cổ phiếu, trái phiếu, tiền gửi tiết kiệm và thu được lợi tức cổ phần, lợi tức trái phiếu và lãi suất tiền gửi. Do đó, không thể phủ nhận rằng, hiện nay, đời sống của người công nhân trong xã hội tư bản được nâng cao, thu nhập của họ không chỉ từ tiền công nhận được hằng tháng, mà còn có thêm các khoản khác như lợi tức cổ phần, tăng ca, trợ cấp khó khăn, thất nghiệp, phúc lợi xã hội... Tuy nhiên, tất cả những phần thu của người công nhân nhận được, một mặt, không bao giờ tỷ lệ thuận với sức lao động của chính bản thân bỏ ra; mặt khác, nhu cầu đòi hỏi của con người tất yếu ngày càng cao, theo đó, chi phí sẽ tăng, trong khi thu nhập không đáp ứng được.

Điều này được C. Mác chứng minh cả về lý luận và minh họa thực tế khi phân tích phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối. Ông chỉ rõ, nhờ rút ngắn thời gian lao động tất yếu [nhờ ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật, tăng sức sản xuất của lao động], trước hết ở ngành sản xuất tư liệu sinh hoạt và những ngành sản xuất tư liệu sản xuất để sản xuất tư liệu sinh hoạt, với một thời gian lao động không đổi, thời gian lao động tất yếu rút ngắn lại và thời gian lao động thặng dư tăng lên, do đó tăng khối lượng giá trị thặng dư tương đối, thậm chí có thể rút ngắn ngày lao động mà vẫn thu được khối lượng giá trị thặng dư nhiều hơn trước. Vì thế, đời sống của người lao động được cải thiện; ở các nước tư bản phát triển, mức sống của đại đa số công nhân được nâng cao hơn trước nhưng mức độ bóc lột lao động không công lại tăng hơn trước. Về phía nhà tư bản, vừa có thể sống xa hoa hơn trước, vừa có thể tích lũy nhiều hơn trước để tăng quy mô sản xuất. Giả sử khi năng suất lao động tăng, giá cả của các hàng hóa tiêu dùng đều giảm, mức tiền công giảm xuống. Người công nhân vẫn có thể mua được số hàng hóa như cũ, hoặc nhiều hơn trước, tức là tiền công thực tế tăng lên nhưng không cùng mức tăng lợi nhuận nên tiền công tương đối [so sánh] giảm xuống. Cho nên, tuy đời sống của công nhân được cải thiện, nhưng mức độ bóc lột lại tăng hơn trước, nên chênh lệch thu nhập giữa nhà tư bản và công nhân càng giãn rộng ra.

Tình trạng phân hóa giàu nghèo ngày càng sâu sắc ở các nước tư bản chủ nghĩa_Ảnh: Tư liệu

Mặt khác, xem xét quan hệ bóc lột của chủ nghĩa tư bản ngày nay không chỉ bó hẹp trong quan hệ giữa nhà tư bản và người lao động làm thuê ở các nước tư bản chủ nghĩa, mà còn phải xem xét cả sự thống trị, bóc lột của các nước phát triển đối với các nước kém phát triển và đang phát triển, thể hiện ở sự phân hóa hai cực giàu và nghèo của thế giới. Theo báo cáo của Oxfam năm 2016, hiện 1% những người giàu nhất thế giới sở hữu tổng số tài sản nhiều hơn 99% số người còn lại. Oxfam tính toán rằng, khoảng cách giàu nghèo đang ngày càng gia tăng khi62 người giàu nhất thế giới sở hữu khối tài sản tương đươngvới khối tài sản của 3,5 tỷ người -nửa nghèo nhất của thế giới,một con số giảm đi rất nhiều so với 388 người giàu nhất thế giới vào 5 năm trước.Tài sản của những người giàu nhất thế giới đã tăng 44% trong năm 2016 so với năm 2010, lên đến 1,76 nghìn tỷ USD, trong khi tài sản củanửa nghèo nhất thế giớigiảm xuống41% trong năm 2016 và chỉ còn hơn 1 nghìn tỷ USD[10].

Đến năm 2018, cũng theo tính toán của Oxfam, mỗi ngày tổng tài sản của các tỷ phú trên thế giới tăng thêm 2,5 tỷ USD, tương đương mức tăng 12% trong cả năm. Trong khi đó, tổng tài sản của 50% dân số nghèo nhất của thế giới, giảm đi 11% trong năm[11]. Điều này cho thấy khoảng cách giàu nghèo ngày càng lớn đang hủy hoại cuộc chiến chống nghèo đói, gây tổn thất cho nền kinh tế thế giới, cũng như châm ngòi cho làn sóng bất bình diễn ra trên toàn cầu. Đến năm 2019, 1% số người giàu nhất thế giới có tài sản lớn gấp đôi số tài sản của 6,9 tỷ người còn lại; 2.153 tỷ phú trên thế giới có nhiều tài sản hơn 4,6 tỷ người[12]. Thực tế này đang phủ định, đi ngược lại chính quan điểm của các học giả đã khẳng định rằng, chủ nghĩa tư bản có bóc lột hay không, không quan trọng, với chính sách thuế khóa và tái phân phối thu nhập ở những nước có chính sách xã hội khôn ngoan, của cải đó được chia cho nhiều người chứ không chỉ tập trung trong tay những nhà tư bản. Người lao động trong các nước công nghiệp hiện đại không nghèo khó hơn mà ngày càng giàu có, lợi tức của họ ngày càng được nâng cao.

Như vậy, thực chất, các quan điểm phản bác C. Mác tập trung vào lý luận hàng hóa sức lao động của C. Mác nhằm bác bỏ học thuyết giá trị thặng dư của ông. Những biểu hiện mới về bóc lột giá trị thặng dư trong chủ nghĩa tư bản hiện đại cũng không thể phủ nhận, bác bỏ được lý luận hàng hóa sức lao động - cơ sở của học thuyết giá trị thặng dư của C. Mác. Thực tế đã và đang chứng minh tính khoa học, tính đúng đắn của học thuyết giá trị thặng dư trong điều kiện lịch sử cụ thể hiện nay. Cho dù khoa học và công nghệ trên thế giới ngày càng phát triển, việc áp dụng các thiết bị máy móc, công nghệ hiện đại và những quan hệ kinh tế - xã hội rất phức tạp, đa chiều, làm cho không ít người lầm tưởng lý luận hàng hóa sức lao động và quy luật giá trị thặng dư đã biến mất, song như C. Mác đã vạch rõ, suy cho cùng, chỉ có lao động sống mới tạo ra lợi nhuận là giá trị thặng dư và sản xuất giá trị thặng dư là quy luật tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản. Lý luận hàng hóa sức lao động cũng như học thuyết giá trị thặng dư của C. Mác vẫn luôn là “hòn đá tảng”, là cơ sở để phân tích, xem xét bản chất kinh tế - chính trị của chủ nghĩa tư bản hiện đại./.

Nguồn://www.tapchicongsan.org.vn

--------------------------

[1], [2], [3] C. Mác và Ph. Ăng-ghen:Toàn tập,Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 23, tr. 19, 21, 872
[4] C. Mác và Ph. Ăng-ghen:Toàn tập, Sđd,t. 23, tr. 279
[5], [6] C. Mác và Ph. Ăng-ghen:Toàn tập, Sđd,t.  23, tr. 300, 304
[7] C. Mác và Ph. Ăng-ghen:Toàn tập, Sđd,t. 25, Phần I, tr. 587
[8], [9] C. Mác và Ph. Ăng-ghen:Toàn tập, Sđd,t.  23, tr. 75, 76, 251
[10]  Xem:  //vietnamfinance.vn/oxfam-1-dan-so-giau-nhat-the-gioi-giau-hon-99-con-lai-20160118100002564.htm,ngày 18-1-2016
[11]  Xem:  //vietnamfinance.vn/cu-2-ngay-the-gioi-co-them-1-ty-phu-nhung-38-ty-nguoi-ngheo-nhat-lai-mat-11-tai-san-20180504224218926.htm, ngày 21-1-2019
[12]  Xem:  //baoquocte.vn/oxfam-bat-binh-dang-tren-toan-cau-da-tro-nen-mat-kiem-soat-108251.html,ngày 22 1-2020

Video liên quan

Chủ Đề