Điểm khác biệt giữa Hội nghị Vécxai - Oasinhtơn 1919 1922 và Hội nghị Ianta 2 1945 là gì

- Hội nghị Ianta năm 1945 có sự tham gia của 3 cường quốc là Liên Xô, Mĩ, Anh. Đây đều là các nước đóng vai trò chủ chốt trong phe Đồng minh chống phát xít trong cuộc chiến tranh thế giới thứ hai - Hội nghị Véc- xai [1919-1920] được tổ chức sau khi chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc. Tham dự hội nghị có 27 nước tham dự, 5 nước chủ trì hội nghị là Anh, Pháp, Mĩ, Italia, Nhật Bản và quyền quyết định nằm trong tay 3 nước Anh, Pháp, Mĩ - Hội nghị Oasinh tơn [1921-1922] có sự tham gia của 9 nước, trong đó 4 nước lãnh đạo là Mĩ, Anh, Pháp, Nhật Bản, quyền quyết định chính thuộc về Mĩ ⇒ Số lượng các nước tham gia hội nghị Ianta so với hội nghị Véc-xai, Oasinhtơn ít hơn và các nước lớn hầu như tự quyết định tất cả các vấn đề mà không cần đến sự có mặt của các nước có liên quan. Điều này phản ánh sự thay đổi so sánh tương quan lực lượng giữa các nước, khoảng cách giữa các nước ngày càng lớn và 3 nước đóng vai trò chi phối thế giới là Liên Xô, Mĩ, Anh

Đáp án cần chọn là: C

Trụ sở của Liên Hợp quốc đặt tại thành phố

Trụ sở của Liên Hợp quốc đặt tại thành phố

Trụ sở của Liên Hợp quốc đặt tại thành phố

Trụ sở của Liên Hợp quốc đặt tại thành phố

* Giống nhau:

-  Cả hệ thống Vecsxai - Oasinhtơn và Trật tự hai cực Ianta đều là kết quả của những cuộc chiến tranh thế giới đẫm máu trong lịch sử nhân loại.

- Đều do các cường quốc thắng trận thiết lập để phục vụ những lợi ích cao nhất của họ.

-  Đều có các tổ chức quốc tế được thành lập để giám sát và duy trì trật tự thế giới [Hội Quốc Liên và Liên Hiệp Quốc].

*Khác nhau:

- Trật tự hai cực Ianta có điểm khác biệt cơ bản so với trật tự thế giới theo hệ thống Vecsxai - Oasinhtơn là sự hiện diện của cực Liên Xô.

- Trật tự hai cực Ianta đó là sự đối lập giữa hai hệ tư tưởng đại diện cho hệ thống Xã hội Chủ nghĩa và hệ thống Tư bản Chủ nghĩa mà đại diện là cực Liên Xô và cực Mỹ. Mặt khác, nó có vai trò tích cực đối với phong trào cách mạng thế giới.

- Trật tự theo hệ thống Vécxai - Oasinhtơn không có sự khác biệt hay đối lập về hệ tư tưởng và cũng không có vai trò tích cực đối với phong trào cách mạng thế giới, trật tự đó chỉ vì quyền lợi của các nước lớn.

- Về cơ cấu tổ chức và duy trì hòa bình cũng như việc kí kết các hòa ước với các nước bại trận hoàn toàn khác nhau. Trật tự hai cực Ianta thể hiện sự tiến bộ và tích cực hơn hẳn.

- Liên Hợp Quốc với vai trò là tổ chức đa phương toàn cầu mang tính toàn diện và tiến bộ hơn hẳn so với Hội Quốc Liên [Hội Quốc Liên là tổ chức của các nước lớn, Liên Hợp Quốc là tổ chức mà tất cả các nước đều có quyền tham gia, dù lớn hay nhỏ, mạnh hay yếu,...].

- Trong trật tự hai cực Ianta diễn ra cuộc đối đầu gay gắt và kéo dài hơn 40 năm giữa Liên Xô và Mỹ làm cho tình hình thế giới luôn căng thẳng đưa thế giới đến bên bờ vực của cuộc chiến tranh.

- Sự sụp đổ của hai trật tự thế giới dẫn đến những hệ quả khác nhau.Hệ thống Vécxai - Oasinhtơn sụp đổ dẫn đến chiến tranh thế giới thứ hai, còn trật tự hai cực Ianta sụp đổ dẫn tới sự tan rã của Liên Xô và kết thúc thời kì chiến tranh lạnh và hình thành xu thế thế giới mới.

Lịch sử thế giới hiện đại đánh dấu nhiều bước chuyển biến to lớn với nhiều các sự kiện mang tính quốc tế sâu sắc, đặc biệt là hai cuộc chiến tranh thế giới đã có tác động mạnh mẽ và sâu sắc đến tiến trình lịch sử của nhân loại.Sau hai cuộc chiến tranh thế giới, vấn đề về quyền lợi sau chiến tranh giữa các nước đế quốc được đặt ra bức thiết, đòi hỏi phải có những hội nghị quốc tế để giải quyết vấn đề này.Theo đó, sau chiến tranh thế giới thứ nhất, hội nghị quốc tế Vecxai được tiến hành để phân chia quyền lợi giữa các nước thắng trận sau chiến tranh, đồng thời có sự trừng phạt những nước bại trận. Tuy nhiên, hội ngị Vecxai chưa làm thoả đáng quyền lợi của một số nước lớn, tiêu biểu ở đây là nước Mĩ. Vì vậy, Mĩ đã đưa ra đề nghị tiến hành thêm một hội nghị quốc tế nữa là hội nghị Oasinhton. Những quyết nghị của hai hội nghị Vecxai và Oasinhton đã đưa đến một trật tự thế giới mới – trật tự Vecxai Oasinhton.

Sau chiến tranh thế giới thứ hai, yêu cầu được đặt ra bức thiết cũng là giải quyết vấn đề về quyền lợi sau chiến tranh giữa các nước. Vì vậy, ngay sau khi cuộc chiến bước vào giai đoạn cuối, hội nghị Ianta được tiến hành với sự tham gia của ba nước lớn là Anh, Mĩ và Liên Xô. Kết quả của hội nghị này cũng cho ra đời một trật tự thế giới mới – trật tự hai cực Ianta.

Cả hai trật tự thế giới đều là kết quả của hai cuộc chiến tranh thế giới, là quyết nghị của hàng loạt các hội nghị quốc tế. Tuy nhiên, khi so sánh về hai trật tự này ta sẽ thấy những điểm giống và khác nhau.

I . Giống nhau

Thứ nhất, là kết quả của những lần chiến tranh đẫm máu trong lịch sử nhân loại [ hai lần chiến tranh thế giới:chiến tranh thế giới thứ nhất và Chiến tranh thế giới lần thứ hai ] .

Thứ hai, do các cường quốc thắng trận thiết lập lên để phục vụ, giải quyết những vấn đề về quyền lợi nhằm đáp ứng những lợi ích cao nhất của họ.

Thứ hai, đem lại quyền lợi cho các nước thắng trận và đưa ra những quyết sách trừng phạt đối với các nước bại trận .

Thứ ba, đều là kết quả của các hội nghị quốc tế lớn do các nước thắng trận hoặc những nước có vai trò và vị thế lớn trên trường quốc tế.

Thứ tư, thành lập các tổ chức quốc tế để giám sát và duy trì trật tự thế giới , giải quyết vấn đề hòa bình an ninh thế giới sau chiến tranh.

II . Khác nhau

1.Hội nghị thành lập các trật tự thế giới Vécsai- Oasinhtơn và trật tự hai cực Ianta

1.1. Bối cảnh diễn ra Hội nghị

v Hội nghị Vécxai- Oasinhtơn

Sau chiến tranh thế giới thứ nhất , các nước thắng trận đã họp Hội nghị hòa bình ở Vécsalles 9 [ thuộc ngoại đô thủ đô Pari của Pháp ] để phân chia lại thế giới và thiết lập một trật tự hòa bình , an ninh mới sau chiến tranh . Hội nghị được tiến hành trong bối cảnh thế giới có nhiều chuyển biến to lớn do kết quả của cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất mang lại .

Trước hết , đó là cuộc cách mạng tháng Mười Nga – 1917 đã bùng nổ và giành thắng lợi. Nó đã chọc thủng khâu yếu nhất trong sợi dây chuyền của chủ nghĩa đế quốc, làm cho chủ nghĩa tư bản không còn là một hệ thống duy nhất trên thế giới nữa. Bản đồ chính tại thế giới đã thay đổi: Chủ nghĩa xã hội đã xuất hiện và chiếm 1/6 diện tích trái đất. Cuộc cách mạng này đã ảnh hưởng sâu sắc đến phong trào cách mạng thế giới và “ đe dọa” sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản. Vấn đề đang được đặt ra đối với giới cầm quyền các nước tư bản là: Làm sao đó để tiêu diệt được nước Nga Xô viết để tiếp tục duy trì sự yên ổn của mình.

Thứ hai, do hậu quả của Chiến tranh thế giới thứ nhất và tác động của cuộc cách mạng tháng Mười Nga, một cao trào cách mạng đã bùng nổ và dâng lên mạnh mẽ suốt những năm 1918-1923 ở cả châu Âu và các nước phụ thuộc. Cao trào này đang giáng những đòn đả kích mạnh mẽ vào chủ nghĩa đế quốc. Giới cầm quyền các nước tư bản lo sợ rằng, cứ tình hình này sẽ có nhiều nước như nước Nga Xô viết ra đời ở châu Âu và hậu phương của họ ở các nước thuộc địa cũng bị đe dọa, cho nên trong các nước tư bản khống chế và tranh giành nhau sau chiến tranh, nhưng các nước này vẫn có một điểm chung là tìm cách đần áp và chống lại cao trào cách mạng.

Thứ ba, tương quan lực lượng giữa các nước tư bản sau chiến tranh đã thay đổi căn bản. Ba nước đế quốc lớn, hung hãn: Đức , Áo-Hung và Thổ Nhĩ Kì bị sụp đổ. Bản thân các nước thắng trận cũng có sự thay đổi,kẻ vươn lên sau chiến tranh là Mỹ. Qua cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất, giới tư bản Mỹ đã vươn lên mạnh mẽ, thu lợi nhuận với 24 tỉ USD, là nước đứng đầu vế kinh tế, tài chính và một tiềm năng quân sự đáng nể. Do đó, trong Hội nghị Vécsailles, Mỹ là nước có tiếng nói uy lực nhất, là chủ nợ của các nước châu Âu. Trước chiến tranh, Anh là nước đứng đầu thế giới tư bản về nhiều mặt, sau chiến tranh thì tiềm lực và uy lực của Anh giảm nhiều, nhưng tham vọng thì vẫn còn rất lớn. Pháp cũng là đế quốc đứng hàng thứ hai trên nhiều lĩnh vực trước chiến tranh, Pháp có lực lượng quân sự mạnh nhất giới tư bản. Nhưng chiến tranh thế giới thứ nhất đã diễn ran gay cả trên đất Pháp làm cho Pháp bị tổn thất nhiều, cho nên tiềm năng của Pháp cũng như không còn như trước.

Như vậy, cả hai cường quốc lâu đời ở châu Âu là Anh và Pháp tuy là kẻ chiến thắng trong chiến tranh nhưng kinh tế bị kiệt quệ nặng nề, tài chính không ổn định, phải trông mong vào sự vay mượn và giúp đỡ của Mỹ mới giải quyết được những khó khăn do chiến tranh gây ra.

Italia là đế quốc thắng trận, nhưn g lại là đồng minh yếu kém nhất, tình hình kinh tế không ổn định, chính trị rối ren bởi những cuộc chiến tranh, giai cấp gay gắt trong nước, đã trở thành miếng đất màu mỡ cho chủ nghĩa phát xít hình thành. Tuy vậy, tham vọng của Italia ở bán đảo Ban căng và Trung Cận Đông là không nhỏ. Nhật Bản vươn lên trong chiến tranh, đang tỏ rõ mưu đồ muốn khống chế cả vùng châu Á – Thái Bình Dương, Nhật Bản đến Hội nghị này với dã tâm và tham vọng rất lớn.

1.2.Hội nghị hai cực Ianta [ 2/1945]:

Đầu 1945, thế chiến hai bước vào giai đoạn cuối, nhiều vấn đề nổi lên cần giải quyết:

+ Việc nhanh chóng kết thúc chiến tranh ở châu Âu và châu Á - Thái Bình Dương

+ Việc tổ chức lại trật tự thế giới sau chiến tranh.

+ Việc phân chia khu vực ảnh hưởng và khu vực đóng quân theo chế độ quân quản của các nước tham gia chống phát xít.

Trong bối cảnh đó, ba cường quốc: Liên Xô, Mỹ, Anh đã tổ chức Hội nghị cấp cao ở Ianata [Liên Xô], diễn ra từ 4 -> 11-2-1945. [Tham dự có: Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô Xtalin, Tổng thống Mĩ Rudơven, Thủ tướng Anh Sơcsin].

2. Thời gian diễn ra các Hội nghị [ thời gian hình thành ]

2.1. Hội Vécsailles- Oasinhtơn

Hội nghịVécsailles [ 1/1919-8/1920 ] , gồm 27 nước trong phe thắng trận tham gia .

2.2.Hội nghị hai cực Ianta

Hội nghị Ianta [ 2/1945] , diễn ra khi Chiến tranh thế giới thứ hai sắp bước vào giai đoạn kết thúc do đó việc giải quyết vấn đề với các nước bại trận không quá khắt khe và áp đặt , Hội nghị có những người đứng đầu của 3 nước Mĩ [ Rudơven], Liên Xô [ Stalin] và Anh [ Sócsin] để xác lập lại trật tự thế giới sau chiến tranh và phân chia phạm vi thế lực giữa ba nước .

3. Những nghị quyết của Hội nghị và sự thành lập trật tự thế giới

3.1 Hội nghị Vécsai-Oasinhtơn

Hệ thống hòa ước Vecxai:

Hai tháng sau khi chiến tranh kết thúc, ngày 18 - 1 - 1919 các nước thắng trận đã họp Hội nghị hoà bình tại Vécxai [ngoại ô thủ đô Pari của Pháp]. Tham dự hội nghị có đại biểu của 27 nước thắng trận. Năm cường quốc tham gia điều khiển hội nghị là Mỹ, Anh, Pháp, Italia và Nhật Bản, nhưng thực sự nắm quyền quyết định hội nghị là Tổng thống Mĩ Uynxơn [Wilson], Thủ tướng Anh Lôi Giooc [Lloyd George] và Thủ tướng Pháp Clêmăngxô [Clemenceau]. Đại biểu của các nước bại trận cũng có mặt để k í vào các hoà ước do các nước thắng trận quyết định. Hội nghị Vécxai kéo dài gần 2 năm và diễn ra hết sức gay go, quyết liệt vì các nước cường quốc thắng trận đều có những mưu đồ tham vọng riêng trong việc phân chia quyền lợi và thiết lập trật tự thế giới sau chiến tranh. Là nước đăng cai hội nghị, Pháp mong muốn làm suy kiệt hoàn toàn nước Đức cả về quân sự và kinh tế, nhằm đảm bảo an ninh và địa vị bá chủ của Pháp ở lục địa châu Âu. Nhưng Anh và nhất là Mĩ lại chủ trương phải duy trì một nước Đức tương đối mạnh để đối phó với phong trào cách mạng đang lê n cao ở các nước châu Âu và âm mưu bá chủ châu Âu của Pháp. Đó là chính sách “cân bằng lực lượng” ở châu Âu mà Mĩ rất ủng hộ. Ngay từ đầu năm 1918, một năm trước khi chiến tranh kết thúc, Tổng thống Mĩ Uynxơn đã đưa ra Chương trình 14 điểm nhằm lập lại hoà bình và tổ chức lại thế giới sau chiến tranh theo quan điểm của Mĩ[1]. Với những lời lẽ bóng bảy, bề ngoài đề cao hoà bình, dân chủ, Chương trình 14 điểm thể hiện mưu đồ xác lập địa vị bá chủ thế giới của Mĩ, làm suy yếu các đối thủ cạnh tranh Anh, Pháp và Nhật Bản, tạo cơ hội để Mĩ vượt khỏi sự biệt lập của châu Mĩ, vươn ra bên ngoài bằng sức mạnh kinh tế và ảnh hưởng chính trị chứ không phải bằng con đường bành trướng lãnh thổ như các cường quốc khác. Chương trình 14 điểm của Uynxơn được các nước coi là nguyên tắc để thảo luận tại Hội nghị Vécxai.

Các nước Italia, Nhật Bản cũng đưa ra những tham vọng của họ. Nhật Bản đòi được thay thế Đức nắm chủ quyền bán đảo Sơn Đông của Trung Quốc, dự định chiếm vùng viễn Đông của nước Nga Xô Viết, mở rộng ảnh hưởng ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Italia muốn mở rộng lãnh thổ xuống vùng Địa Trung Hải và vùng Bancăng. Các nước nhỏ như Ba Lan và Rumani cũng có những yêu cầu mở rộng lãnh thổ của mình.

Sau gần nửa năm tranh cãi với 3 lần có nguy cơ tan vỡ vì bất đồng gay gắt về quyền lợi, cuối cùng các văn kiện của Hội nghị Vécxai được kí kết.

3.1.1.Sự thành lập hội Quốc liên [League of Nations].

Một trong những vấn đề cơ bản đầu trên được các nước tham dự Hội nghị Vécxai nhất trí là việc thành lập Hội Quốc liên.Công ước thành lập Hội quốc liên là văn kiện đầu tiên được kí kết cùng với Hiến chương của Hội. Theo đó, mục đích của Hội Quốc liên là “khuyến khích sự hợp tác quốc tế, thực hiện nền hoà bình và an ninh thế giới”, và để thực hiện mục đích đó người ta đề ra một số nguyên tắc như: không dùng chiến tranh trong quan hệ giữa các nước, quan hệ quốc tế phải rành mạch và dựa trên đạo lí, phải thi hành những cam kết quốc tế... Ngày 10 - 1 - 1920, Hội Quốc liên chính thức thành lập với 44 nước kí vào công ước sáng lập, Hội quốc liên có 3 tổ chức chính: Đại hội đồng [gồm tất cả các nước thành viên, họp mỗi năm một lần vào tháng 9], Hội đồng thường trực [gồm 5 uỷ viên các cường quốc Anh, Pháp, Mĩ, Nhật, Italia - sau đó còn lại 4 vì Mĩ không tham gia, và một số uỷ viên có kì hạn, họp mỗi năm ba lần], Ban thư ký thường trực như một nội các làm việc hành chính thường xuyên. Các cơ quan chuyên môn của Hội Quốc liên gồm có Toà án quốc tế [có trụ sở thường trực ở La Hay] và các tổ chức khác như: Tổ chức lao động quốc tế [ILO], Tổ chức sức khoẻ [HO], uỷ ban người tị nạn [HCR] ... Nội dung hoạt động do Hội Quốc liên đề ra là giám sát việc giải trừ quân bị, tôn trọng và bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ và độc lập chính trị, giải quyết các tranh chấp quốc tế, thực hiện “chế độ uỷ trị” đối với một số lãnh thổ “chưa đủ điều kiện tự quản”... Nước nào vi phạm công ước, gây chiến tranh sẽ bị xem là gây chiến với toàn thể hội viên và sẽ bị trừng phạt dưới hai hình thức: bằng biện pháp kinh tế và tài chính [do tất cả các nước hội viên bắt buộc phải thi hành] và bằng những biện pháp quân sự. Sự ra đời của Hội Quốc Liên, một tổ chức chính trị mang tính quốc tế đầu tiên, đã đánh dấu bước phát triển mới của quan hệ quốc tế thế kỷ XX.Về danh nghĩa, Hội Quốc Liên trở thành một tổ chức giám sát trật tự quốc tế mới, nhằm ngăn ngừa chiến tranh, bảo vệ hoà bình thế giới. Tuy nhiên, trên thực tế, những hoạt động của Hội quốc Liên là nhằm duy trì trật tự thế giới mới do các cường quốc chiến thắng áp đặt tại Hội nghị Vécxai. Với "chế độ uỷ trị", Anh, Pháp đã chia nhau hầu hết các thuộc địa của Đức và lã nh thổ của đế quốc Thổ Nhĩ Kì. Các biện pháp về giải trừ quân bị và sự trừng phạt chỉ mang ý nghĩa hình thức vì Hội Quốc liên không có sức mạnh thực tế để thực thi các quyết định của mình.Để Hội Quốc Liên có thể trở thành một công cụ có hiệu quả, tổ chức này phải có ý chí chính trị thống nhất và có khả năng quân sự cần thiết.Những sự kiện diễn ra sau này sẽ cho thấy sự bất lực của Hội Quốc Liên trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế. Hội Quốc Liên được thành lập theo sáng kiến của Tổng thống Mĩ Uynxơn nhưng Mĩ từ chối không tham gia do những tham vọng của Mĩ đã không được thực hiện trong Hội nghị Vécxai. Điều đó cũng là một nhân tố ảnh hưởng đến uy tín và sức mạnh của tổ chức này.

3.1.2.Hoà ước Vécxai với Đức.

Hoà ước Vécxai với Đức kí ngày 28 - 6 - 1919, văn kiện quan trọng nhất của hệ thống hoà ước Vécxai, đã quyết định số phận của nước Đức. Hoà ước khẳng định nước Đức bại trận phải chịu trách nhiệm về “tội ác gây chiến tranh”, do đó phải trả lại cho Pháp hai tỉnh Andat và Loren [Alsace-Lorraine]; nhường cho Bỉ khu ơpen Manmơđi [Eupen Malmedy] và Môrêxnet [Moresnet]; cắt cho Ba Lan vùng Pômêrani [ Pomerania] và một “hành lang chạy ra biển”; cắt cho Đan Mạch vùng Bắc Sơlexvít [Slesvig] ... Thành phố cảng Đăngdích [Dantzig nay làGơđanxcơ, Ba Lan] và đảo Hengôlan sẽ do Hội quốc liên quản trị. Hạt Xarơ [Sarre] của Đức cũng giao cho Hội Quốc liên quản trị trong thời hạn 15 năm, các mỏ than ở đây thuộc về Pháp.Sau thời hạn này sẽ tiến hành trưng cầu ý dân để quyết dịnh hạt Xarơ sẽ thuộc về nước nào [sau cuộc trưng cầu ý dân năm 1935, hạt Xarơ đã thuộc về nước Đức]. Đồng thời toàn bộ hệ thống thuộc địa của Đức đều trở thành đất uỷ trị của Hội Quốc liên và được giao cho các cường quốc Anh, Pháp, Nhật, Bỉ... quản lí .

Nước Đức còn bị hạn chế vũ trang đến mức thấp nhất: chỉ được giữ lại 100.000 bộ binh với vũ khí thông thường, không có không quân, không có hạm đội tầu ngầm và thiết giáp hạm. Vùng tả ngạn sông Ranh [gần biên giới Pháp] và 3 đầu cầu vùng hữu ngạn sẽ do quân đội Đồng minh đóng trong vòng 15 năm và rút dần quân nếu Đức thi hành hoà ước. Vùng hữu ngạn sông Ranh với chiều rộng 50 km sẽ trở thành khu phi quân sự. Nước Đức còn phải bồi thường chiến tranh cho các nước thắng trận số tiền [do Hội nghị Luân đôn th áng 4 - 1921 qui đinh] là 132 tỉ Mác vàng, trong đó trả cho Pháp: 52% Anh 22%, Italia: 10%, Bỉ: 8%... Với hoà ước này, nước Đức mất 1/8 đất đai, gần 1/12 dân số, 1/3 mỏ sắt, gần 1/3 mỏ than, 2/5 sản lượng gang, gần 1/3 sản lượng thép và gần 1/7 diện tích trồng trọt. Toàn bộ gánh nặng của hoà ước Vécxai đè lên vai nhân dân Đức. Tuy thế, hoà ước Vécxai không thủ tiêu được tiềm lực kinh tế chiến tranh của Đức. Sau này, với sự trợ giúp của Mĩ, Anh, chỉ trong vòng một thời gian ngắn, nước Đức đã khôi phục và trở thành một lò lửa chiến tranh nguy hiểm nhất ở châu Âu trong thập niên 30.

3.1.3. Các hoà ước khác.

Cùng với hoà ước Vécxai kí với Đức, những hoà ước khác cũng lần lượt kí kết với các nước bại trận trong hai năm 1919 - 1920. Với hoà ước Xanh Giéc manh [Saint - Germain] kí với áo ngày 10 - 9 -1919 và Hoà ước Trianông [Trianon] kí với Hunggari ngày 4-6-1920, đế quốc áo - Hung trước kia không còn nữa mà bị tách thành hai nước nhỏ: áo chỉ còn 6,5 triệu dân với diện tích 84.000 km2, Hunggari cũng mất 1/3 lãnh thổ trước kia, chỉ còn lại 92.000km2 với 8 triệu dân[1]. Mỗi nước chỉ đượ c quyền có khoảng 30.000 quân và phải bồi thường chiến phí. trên lãnh thổ của đế quốc áo - Hung cũ đã thành lập hai quốc gia mới là Tiệp Khắc và Nam Tư. Một số nước được mở rộng thêm đất đai từ lãnh thổ của đế quốc áo - Hung: Rumani được thêm vùng Bucôvina [Bukovine và Tơranxinvani [Transylvanie], Italia được thêm vùng Tơrentin và Itxtria [Trentin - Istrie], Ba Lan cũng được thành lập với vùng Galixia thuộc áo và các vùng đất khác thuộc Đức và Nga. Ở bán đảo Ban căng, số phận hai nước thua trận là Bungari và đế quốc ốttôman cũng được quyết định. Với hoà ước Nơiy [Neuilly] kí với Bungari ngày 27-11-1919, lãnh thổ Bungari bị thu hẹp lại so với trước kia do phải cắt một số đất đai ở biên giới phía Tây cho Nam Tư, cắt vùng Thơraxơ [Thrace] cho Hi Lạp [do vậy bị mất cảng Đêđêaghát [Dédéagatch] và lối ra biển Êgiê [Egée] và cắt tỉnh Đôbrútgia [Dobroudja] cho Rumani. Ngoài ra, Bungari phải bồi thường chiến phí là 2,25 tỉ phơ răng, phải nộp cho các nước lán g giềng trong phe chiến thắng [Nam Tư, Hi lạp, Rumani] 37.000 gia súc lớn, 33.000 gia súc nhỏ, đồng thời phải hạn chế lực lượng vũ trang xuống còn không quá 20.000 người. Hoà ước Xevrơ [Sevres] với thổ Nhĩ Kì kí ngày 11 - 8 - 1920 đã chính thức xoá bỏ sự tồn tại của đế quốc ốttôman. Xiri, Libăng, Palextin và Irắc tách khỏi thổ Nhĩ Kì và đặt dưới quyền “bảo hộ” của Anh và Pháp. Ai cập chịu sự “bảo hộ” của Anh, bán đảo Aráp được coi là thuộc “phạm vi thế lực” của Anh.Phần đất châu Âu của Thổ Nhĩ Kì phải cắt cho Hi Lạp [trừ Ixtambun và vùng ngoại ô]. Các eo biển của Thổ Nhĩ Kì được đặt dưới quyền kiểm soát của một uỷ ban gồm các đại biểu của Anh, Pháp, Italia, Nhật Bản. Toàn bộ những hoà ước nói trên hợp thành Hệ thống hoà ước Vécxai. Đây là văn bản chính thức đầu tiên xác định việc phân chia thế giới của chủ nghĩa đế quốc.Trật tự mới này đem lại lợi ích cho các cường quốc thắng trận, nhất là Anh.Anh chẳng những mở rộng hệ thống thuộc địa đồng thời quyền bá chủ mặt biển vẫn được giữ vững.Pháp và Nhật cũng giành được khá nhiều quyền lợi. Tuy nhiên, những điều khoản khắt khe của Hệ thống hoà ước Vécxai đối với các nước chiến bại, nhất là Đức, trên thực tế chẳng những đã không thể thực hiện được mà còn làm tăng thêm tâm lý phục thù của các nước này. Đó là mâu thuẫn nảy sinh ngay từ khi hệ thống này mới được hình thành.Đồng thời, tham vọng lãnh đạo thế giới của giới cầm quyền Mĩ cũng chưa được thực hiện. Chính vì thế các nước đế quốc đã phải tiếp tục giải quyết những bất đồng về quyền lợi tại một hội nghị tiếp theo ở oasinhtơn.

3.2. Hệ thống hiệp ước Oashinh tơn [1921-1929]

Hội nghị Vécxai kết thúc nhưng những mâu thuẫn mới lại nảy sinh giữa các cường quốc thắng trận đặc biệt là mâu thuẫn trong quan hệ Anh - Mĩ và Mĩ - Nhật. Quốc hội mĩ đã không phê chuẩn Hoà ước Vécxai vì những quyền lợi của Mĩ không được thoả mãn. Gần hai năm sau, ngày 25-8- 1921, Mĩ đã kí hoà ước riêng rẽ với Đức. Đồng thời Mĩ đưa ra “sáng kiến” triệu tập một hội nghị quốc tế ở oasinhtơn để giải quyết những vấn đề trong quan hệ quốc tế ở khu vực Viễn Đông - Thái Bình Dương, nhằm ngăn chặn phong trào độc lập dân tộc đang lên cao và củng cố nền thống trị thực dân ở khu vực này. Ngày 12 - 11 - 1921, Hội nghị oasinhtơn được khai mạc với sự tham gia của 9 nước: Anh, Pháp, Mĩ, Italia, Nhật, Bỉ, Hà Lan, Bồ Đào Nha và Trung Quốc. Nước Nga Xô viết - một nước lớn ở khu vực đã không được mời tham dự hội nghị. Quyền lãnh đạo hội nghị nằm trong tay bốn nước: Anh, Pháp, Mĩ, Nhật, nhưng quyền quyết định thuộc về Mĩ. Những nghị quyết quan trọng nhất của Hội nghị oasinhtơn được thể hiện trong ba hiệp ước: Hiệp ước 4 nước [Anh, Pháp, Mĩ, Nhật] , Hiệp ước 9 nước [Anh, Pháp, Mĩ, Nhật, Italia, Bỉ, Hà Lan, Bồ Đào Nha, Trung Quốc] và Hiệp ước 5 nước [Anh, Pháp, Mĩ, nhật, Italia].

3.2.1. Hiệp ước 4 nước được gọi là Hiệp ước “không xâm lược ở Thái Bình Dương” kí ngày 13-12-1921 và có giá trị trong 10 năm. Các bên thoả thuận “tôn trọng quyền của nhau về các đảo ở vùng Thái Bình Dương” thực ra là cùng nhau bảo vệ các thuộc địa ở khu vực rộng lớn này.Đồng thời cũng nhân dịp này Mĩ gây áp lực với Anh để liên minh Anh - Nhật [được kí kết từ năm 1902] không còn hiệu lực nữa [điều 4].Với Hiệp ước này, Mĩ không chỉ thủ tiêu được liên minh Anh - Nhật mà còn trở thành nước đóng vai trò chủ đạo trong bốn cường quốc ở khu vực Thái Bình dương.

3.2.2 Hiệp ước 9 nước kí ngày 6 - 2 - 1922 công nhận nguyên tắc “hoàn chỉnh về lãnh thổ và tôn trọng chủ quyền của Trung Quốc” đồng thời nêu nguyên tắc “mở cửa” và “khả năng đồng đều” cho các nước trong các hoạt động thương mại và công nghiệp trên toàn lãnh thổ Trung Quốc. Với hiệp ước này, Trung Quốc đã trở thành một thị trường chung của các cường quốc phương Tây và Nhật Bản. Đặc biệt là Mĩ đã hợp pháp hoá sự bành trướng của mình vào Trung Quốc.

3.2.3. Hiệp ước 5 nước kí kết cùng ngày 6-2- 1922, được gọi là “Hiệp ước hạn chế vũ trang và hải quân” nhằm qui định trọng tải tàu chiến của các nước ở khu vực Thái Bình Dương theo tỉ lệ: Mĩ và Anh bằng nhau: 525.000 tấn, Nhật: 315.000 tấn, Pháp và Italia bằng nhau: 175.000 tấn. Đồng thời các nước này cũng qui định tỉ lệ về hai loại tàu chở máy bay và tầu tuần dương hạm.

Hội nghị Oasinhtơn hoàn toàn có lợi cho Mĩ, trong khi nước Anh phải chấp nhận nhượng bộ: từ bỏ nguyên tắc “sức mạnh quân sự gấp đôi” đã có từ năm 1914, theo đó hải quân Anh phải có hạm đội bằng hai hạm đội mạnh nhất thế giới cộng lại, đồng thời phải huỷ bỏ liên minh Anh - Nhật. Từ đây hải quân Mĩ ngang hàng với Anh và vượt qua Nhật. Mĩ còn thực hiện được việc xâm nhập vào thị trường viễn Đông và Trung Quốc thông qua chính sách “mở cửa”. Với hệ thống Hiệp ước Oasinhtơn, Mĩ đã giải quyết quyền lợi của mình bằng cách thiết lập một khuôn khổ trật tự mới ở Châu á - Thái Bình Dương do Mĩ chi phối. Kết hợp với hệ thống Hoà ước Vécxai, các hiệp ước của Hội nghị Oasinhtơn đã tạo nên Hệ thống Vécxai - Oasinhtơn. Đó là trật tự thế giới mới mà chủ nghĩa đế quốc xác lập, trong đó ba cường quốc Anh, Pháp, Mĩ giành được nhiều ưu thế nhất và “7/10 dân cư thế giới trong tình trạng bị nô dịch” theo cách nói của Lênin. Nội bộ phe đế quốc cũng bị phân chia thành những nước thoả mãn và những nước bất mãn với hệ thống này, tạo nên mầm mống của những cuộc xung đột quốc tế trong tương lai. Như thế, sau cuộc chiến tranh thế giới kéo dài bốn năm [1914 - 1918] với những tổn thất nặng nề cho toàn nhân loại, hoà bình đã được lập lại trong một thế giới chứa đựng nhiều mâu thuẫn và bất ổn.

3.3. Hội nghị hai cực Ianta

Hội nghị Ianta [ 2/1945] , diễn ra khi Chiến tranh thế giới thứ hai sắp bước vào giai đoạn kết thúc do đó việc giải quyết vấn đề với các nước bại trận không quá khắt khe và áp đặt, Hội nghị có những người đứng đầu của 3 nước Mỹ [Rudơven ], Liên Xô [ Stalin] và Anh [ Sócsin] để xác lập lại trật tự thế giới sau chiến tranh và phân chia phạm vi thế lực giữa ba nước.

3.3.1. Diễn biến: Hội nghị diễn ra gay go, căng thẳng. Vì thực chất của Hội nghị là cuộc đấu tranh gay go và quyết liệt, để phân chia phạm vị thế lực, phân chia thành quả chiến tranh của các lực lượng mạnh, giữ vai trò chủ chốt nhất trong chiến tranh. Sự phân chia đó có liên quan đến hòa bình, an ninh và trật tự thế giới sau này.

3.3.2. Những quyết định của Hội nghị: [Nội dung của Hội nghị]:

Về việc kết thúc chiến tranh: 3 nước thống nhất tiêu diệt tận gốc chủ nghĩa phát xít Đức và chủ nghĩa quân phiệt Nhật; Liên Xô sẽ tham gia chống Nhật khi chiến tranh kết thúc ở châu Âu.

Ba cường quốc thống nhất thành lập tổ chức Liên Hợp Quốc để giữ gìn hòa bình an ninh và trật tự thế giới sau chiến tranh.

Thỏa thuận việc đóng quân tại các nước để giải giáp quân đội phát xít, phân chia phạm vi ảnh hưởng ở châu Âu và châu Á

Ở châu Âu: quân đội Liên Xô chiếm đóng miền Đông nước Đức, Đông Béclin và các nước Đông Âu; quân đội Mỹ, Anh, Pháp chiếm đóng miền Tây nước Đức, Tây Béclin và các nước Tây Âu. Vùng Đông Âu thuộc ảnh hưởng của Liên Xô; vùng Tây Âu thuộc ảnh hưởng của Mỹ. Hai nước Áo và Phần Lan trở thành những nước tập trung.

Ở châu Á, Hội nghị chấp nhận những điều kiện của Liên Xô để tham chiến chống Nhật Bản: 1. Giữ nguyên Mông Cổ; 2. Trả lại cho Liên xô miền Nam đảo XAkhalin và các đảo xung quanh , quốc tế hóa thương cảng Đại Liên [ Trung Quốc] và khôi phục việc Liên Xô thuê cảng Lữ Nhuận làm căn cứ hải quân. Liên Xô cùng Trung Quốc khai thác đường sắt Nam Mãn Châu - Đại Liên, Liên xô chiếm 4 đảo thuộc quần đảo Curin.

Quân đội Mỹ chiếm đóng Nhật Bản; ở bán đảo Triều Tiên, quân đội liên Xô chiếm đóng miền Bắc và quân đội Mỹ chiếm đóng miền Nam, lấy vĩ tuyến làm ranh giới; Trunh Quốc cần trở thành một quốc gia thống nhất và dân chủ, quân đội nước ngoài [ Mỹ, Liên Xô ] rút khỏi Trung Quốc, Chính phủ Trung Hoa Dân quốc cần phải cải tổ với sự tham gia của đảng Cộng sản và các đảng phái dân chủ , trả lại cho Trung Quốc vùng Mãn Châu , đảo Đài Loan và quần đảo Bành Hồ , các vùng còn lại của châu Á [ Đông Nam Á , Nam Á , Tây Á ] vẫn thuộc phạm vi ảnh hưởng của các nước phương Tây .
Theo thỏa thuận cuat hội nghị Pốtxđam [ Đức , từ ngày 17/7 đến 2/8/1945 ], việc giải giáp quân đội Nhật Bản ở Đông Dương được giao cho quân đội Anh vào phía Nam vĩ tuyến 16 và quân đội Trunh Hoa Dân quốc vào phía Bắc.

=> Những quyết định của Hội nghị Ianta trở thành khuôn khổ của trật tự thế giới mới từng bước được thiết lập trong những năm 1945 - 1947 sau khi chiến tranh kết thúc, thường được gọi là "trật tự hai cực Ianta" [trật tự hai cực Xô - Mỹ].

3.3.3. Đánh giá những quyết định của Hội nghị:

Nhìn chung, nội dung các bản hòa ước là thỏa đáng, đáp ứng được lợi ích của nhân dân các nước chiến thắng và không quá khắc khe, nặng nề đối với nhân dân các nước chiến bại.

Do các cường quốc thắng trận thiết lập, nên lợi ích chủ yếu thuộc về các nước đó, song so với trật tự theo hệ thống Vecxai - Oasinhtơn trước đây, trật tự Ianta có những nét khác biệt:

Cơ quan duy trì hòa bình, an ninh của trật tự này là Liên Hợp Quốc, tiến bộ hơn so với Hôi Quốc Liên trước kia.

Có “ cực” Liên Xô luôn làm hậu thuẫn cho phong trào CM XHCN, CM GPDT và sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội.

Việc giải quyết các vấn đề về chế độ chính trị, quân sự, lãnh thổ và bồi thường chiến tranh đối với các nước chiến bại được thỏa đáng hơn so với trật tự theo hệ thống Vecxai - Osinhtơn.

4. Trật tự thế giới sau Vécsai-Oasinhtơn và trật tự hai cực Ianta

4.1.Trật tự thế giới sau Hội nghị

4.1.1Trật tự Vécsailles- Oasinhtơn

Quan hệ quốc tế vẫn trong một khối các nước tư bản chủ nghĩa với hệ tư tưởng chung mà vai trò lãnh đạo thuộc về các cường quốc : Anh , Pháp , Mỹ

Mâu thuẫn , đối đầu chằng qua là sự tranh chấp quyền lợi giũa các nước tư bản chủ nghĩa về vấn đề thuộc địa , thị trường....

è Chủ nghĩa đơn phương định đoạt các vấn đề toàn cầu .Thế giới hình thành trật tự Vécsai-Oasinhtơn chỉ có các nước tư bản chủ nghĩa.

4.1.2. Trật tự hai cực Ianta

Thế giới hình thành 2 cực với hai lực lượng đối lập nhau về hệ tư tưởng , chính thể chính trị-xã hội đối lập:

Một bên là Liên Xô , anh cả của các nước Xã hội chủ nghĩa , lục lượng hậu thuẫn trong phong trào cách mạng thế giới .

Một bên là Mỹ : Đứng đầu thế giới tư bản với vai trò hậu thuẫn các lực lượng phản cách mạng và âm mưu vươn lên vị trí bá chủ thống trị thế giới.

Cuộc đối đầu giữa hai cực diễn ra gay gắt , quyết liệt kéo dài hơn 4 thập kỉ, kéo theo sự đối đầu giữa 2 khối Đông –Tây cuốn hút nhiều quốc gia, khu vực vào vòng xoáy căng thẳng phức tạp của nó.

Lần đầu tiên một chính thể chính trị-xã hội được xem là tiên tiến nhất: chủ nghĩa xã hội tham gia vào quyết định chiều hướng phát triển của lịch sử nhân loại. Trật tự đã làm xuất hiện một kiểu quan hệ quốc tế mới dựa trên những nguyên tắc hoàn toàn mới mẻ. Những nguyên tắc đó phụ thuộc vào sự chuyển biến trong quan hệ giữa Chủ nghĩa tư bản và Chủ nghĩa xã hội

Chủ nghĩa tư bản + Chủ nghĩa xã hội với các nước thuộc thế giới thứ ba

Vấn đề trong nội bộ các nước trong tư bản chủ nghĩa và chủ nghĩa xã hội .

Trong thế giới tồn tại trật tự hai cực có những chuyển biến tích cực:

Chủ nghĩa thực dân sụp đổ và sự hình thành hàng loạt các quốc gia độc lập trên thế giới, vai trò của các nước đang phát triển ngày càng tăng lên => lực lượng lao động được giải phóng => động lực phát triển kinh tế thế giới.

Hệ thống chủ nghĩa xã hội tác động và kiềm chế sự áp bức bóc lột của chủ nghĩa tư bản là một bộ phận lớn của thế giới .Tạo điều kiện cho cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc dân chủ và tiến bộ của các dân tộc trên thế giới.

Hòa bình thế giới cơ bản được giữ vững.

Kinh tế vượt ra khỏi phạm vi quốc gia, hình thành thị trường thế giới.

5. Hệ quả của hai trật tự

5.1. Trật tự Vécsai – Oasinhtơn

Saukhi trật tự Vécsai – Oasinhtơn được hình thành đã tiềm ẩn nhiều mâu thuẫn

5.2. Trật tự hai cực Ianta

Hòa bình thế giới được giũvững , kết thúc trật tự=> sụp đổ của Liên Xô, hệ thống các nước Xã hội chủ nghĩa, kết thúc chiến tranh lạnh.

Cuộc đấu tranh mạnh mẽ của toàn thể nhân dân tiến bộ trên thế giới chống chiến tranh xâm lược và nguy cơ chiến tranh hạt nhân hủy diệt và bảo vệ hòa bình.

Một mặt do cân bằng quân sự , chiến lược giũa Liên Xô và Mỹ, buộc cả 2 phải đụng độ trực tiếp về quân sự vì nếu chiến tranh nổ ra sẽ không thể phân thắng bại.

6. Sự sụp đổ của hai trật tự

6.1. Trật tự Vécsai-Oasinhtơn

Cuộc đại khủng hoảng kinh tế thế giới [1929 - 1933] bùng nổ đã chấm dứt thời kì ổn định của chủ nghĩa tư bản cùng với ảo tưởng về một kỷ nguyên hoà bình của thế giới. Cuộc khủng hoảng bắt đầu từ nước Mĩ ngày 24 - 10 - 1929, đã nhanh chóng tràn sang châu Âu, bao trùm toàn bộ thế giới tư bản chủ nghĩa, để lại những hậu quả nghiêm trọng về kinh tế, chính trị, xã h ội. Hàng trăm triệu người [công nhân, nông dân và gia đình của họ] bị rơi vào vũng lầy đói khổ. Hàng ngàn cuộc biểu tình lôi cuốn trên 17 triệu công nhân ở các nước tư bản tham gia trong những năm 1929 - 1933.ở các nước thuộc địa và phụ thuộc, cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc cũng bùng lên mạnh mẽ. Những mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản trở nên cực kì gay gắt. Trong bối cảnh đó đã hình thành những xu hướng khác biệt nhau trong việc tìm kiếm con đường phát triển giữa các nước tư bản chủ nghĩa. Các nước không có hoặc có ít thuộc địa gặp nhiều khó khăn về vốn, nguyên liệu và thị trường đã đi theo con đường phát xít hoá chế độ chính trị, thiết lập nền chuyên chính khủng bố công khai nhằm cứu vãn tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng của mình. Các nước Italia, Đức, Nhật Bản là điển hình cho xu hướng này.Trong những năm 1929 - 1936, giới cầm quyền các nước nói trên đã từng bước phá vỡ những điều khoản chính yếu của hệ thống Vécxai - Oasinhtơn và tích cực chuẩn bị cuộc chiến tranh để phân chia lại thế giới. Trong khi đó các nước Mỹ, Anh, Pháp... đã tìm cách thoát ra khỏi khủng hoảng bằng những cải cách kinh tế - xã hội , duy trì nền dân chủ tư sản đại nghị, đồng thời chủ trương duy trì nguyên trạng hệ thống Vécxai - Oasinhtơn. Quan hệ giữa các cường quốc tư bản trong thập niên 30 chuyển biến ngày càng phức tạp. Sự hình thành hai khối đối lập - một bên là Đức, Italia, Nhật Bản với một bên là Mĩ, Anh, Pháp và cuộc chạy đua vũ trang giữa hai khối đã phá vỡ hệ thống thoả hiệp tạm thời Vecxai - Oasinhtơn dẫn tớ i sự hình thành các lò lửa chiến tranh, báo hiệu một cuộc chiến tranh thế giới mới.

6.2. Trật tự hai cực Ianta

Trong những năm cuối thập niên 80, đầu thập niên 90, những biến động chính trị to lớn đã diễn ra ở Liên Xô và Đông Âu. Công cuộc cải tổ ở Liên Xô do Goócbachốp khởi xướng đã phạm phải những sai lầm nghiêm trọng, gây ra tình trạng hỗn loạn về chính trị và làm cho nền kinh tế Liên Xô ngày càng trì trệ hơn.

Những nhân tố đó là tiền đề cho sự tan vỡ không thể tránh khỏi của Nhà nước liên bang. Ngày 21 - 12 - 1991, Liên Xô tuyên bố giải thể, 15 nước Cộng hoà trở thành các quốc gia độc lập.ở Đông Âu, từ thập niên 80, các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu cũng tiến hành chính sách cải cách với những mức độ khác nhau. Công cuộc cải tổ ở Liên Xô đã tác động tiêu cực đến tình hình kinh tế, chính trị Đông Âu.

Thứ hai, sự đối lập Đông - Tây cũng mờ nhạt dần cùng với các cuộc đàm phán Đông - Tây ở châu Âu.Chính sách hoà dịu có chọn lọc và hợp tác của Liên Xô, Đông Âu với Tây Âu đã tạo ra xu thế hoà hoãn ở châu Âu. Cuối thập niên 80, khi Goócbachốp đưa ra ý tưởng về “Ngôi nhà chung châu Âu” thì sự đối đầu Đông - Tây ở châu Âu về cơ bản đã chấm dứt.

Thứ ba, sự vươn lên của các nước trong thế giới thứ ba nhằm thoát khỏi ảnh hưởng của hai cực đã làm suy giảm sức mạnh của trật tự Ianta.Đặc biệt là sự vươn lên của Trung Quốc, sự hình thành tam giác chiến lược Mĩ - Xô - Trung cũng tác động mạnh mẽ đến quá trình giải thể trật tự hai cực.

Thứ tư, một nhân tố quan trọng cần phải kể đến là sự thay đổi trong cán cân kinh tế thế giới. Sự nổi lên của Nhật Bản, các nước Tây Âu đã tạo ra những trung tâm kinh tế đối trọng với Mĩ trong thế giới tư bản.Năm 1975, trong nội bộ chủ nghĩa tư bản đã xuất hiện cơ chế điều hoà với sự ra đời của tổ chức G7 [gồm 7 nước công nghiệp phát triển].Điều đó chứng tỏ Mĩ không còn là nước duy nhất quyết định thế giới phương Tây.

Về phía Liên Xô, những sai lầm trong chiến lược phát triển kinh tế, nhất là chiến lược đầu tư quá lớn vào công nghiệp nặng, chi phí quân sự cao… đã làm méo mó cơ cấu kinh tế và suy giảm sức mạnh của Liên Xô. Trước những biến đổi về kinh tế và quan hệ quốc tế trong thập niên 80, Liên Xô không có khả năng xoay chuyển được tình thế, vai trò siêu cường bị suy yếu, dẫn tới sự giải thể của trật tự hai cực Ianta.

II. Kết luận

Trật tự thế giới là hệ quả của những cuộc chiến tranh thế giới thông qua hàng loạt các hội nghị quốc tế. Đó là những quyết sách do các nước thắng trận hay các nước lớn đưa ra cho các nước bại trận, đồng thời để phân chia quyền lợi về thuộc địa, về kinh tế và tầm ảnh hưởng ở các khu vực thuộc các nước bại trận.

Khi so sánh hai trật tự Vecxai – Oasinhton và trật tự hai cực Ianta về sự giống và khác nhau ta thấy được tầm ảnh hưởng của hai trật tự này đến tiến trình phát triển của lịch sử thế giới. Hai trật tự trên đã chi phối quan hệ quốc tế trên thế giới trong suốt một thời gian dài, đặc biệt là quan hệ giữa các nước có vị thế lớn trên trường quốc tế.

Khi học tập, tìm hiểu về lịch sử quan hệ quốc tế ở thế kỉ XX ta không thể không nhắc tới các hội nghị quốc tế lớn. Những quyết sách, hệ quả của các hội nghị đã có tầm ảnh hưởng sâu sắc và mang tính lịch sử quốc tế to lớn.

Trang dimple

Video liên quan

Chủ Đề