Hướng dẫn xuất nhập cảnh đài loan Informational, Commercial

Căn cứ diễn biến tình hình dịch bệnh Covid-19 trên thế giới, khả năng phòng chống dịch trong nước và nhu cầu trao đổi thương mại hiện nay, Trung tâm chỉ huy phòng chống dịch bệnh Đài Loan thông báo, kể từ ngày 01/3/2021 điều chỉnh quy định nhập cảnh cho người nước ngoài vào Đài Loan, cụ thể như sau:

1. Khôi phục điều kiện nhập cảnh cho người nước ngoài và công tác quá cảnh ở sân bay Đào Viên, Đài Loan:

- Những người có thẻ cư trú Đài Loan đều được nhập cảnh, những người không có thẻ cư trú được phép xin visa tại các văn phòng đại diện ở nước ngoài (trừ visa du lịch và thăm hỏi xã giao).

- Những người đi cùng hãng hàng không và thời gian quá cảnh không quá 8 giờ được phép quá cảnh tại sân bay Đào Viên, Đài Loan.

- Những người nhập cảnh Đài Loan bằng đường hàng không hoặc quá cảnh tại sân bay của Đài Loan đều phải xuất trình kết quả xét nghiệm âm tính với Covid-19 trong vòng 03 ngày.

2. Khôi phục quy định cho phép người nước ngoài đến Đài Loan chữa bệnh (trừ những người có nhu cầu chữa bệnh không cấp thiết như kiểm tra sức khoẻ hay phẫu thuật thẩm mỹ...)

3. Khôi phục quy định cho phép người nước ngoài sang Đài Loan công tác ngắn hạn đến từ khu vực hoặc quốc gia có tình hình dịch bệnh thấp xin rút ngắn thời gian cách ly tại nhà, người xin phải đảm bảo những điều kiện sau:

- Người thuộc đối tượng được Trung tâm chỉ huy dịch bệnh cho phép nhập cảnh.

- Thời gian lưu trú không quá 03 tháng.

- Đến Đài Loan với mục địch công tác, đồng thời phải có giấy tờ chứng minh liên quan của công ty hợp pháp tại Đài Loan.

- Địa điểm xuất phát phải là những khu vực hoặc quốc gia có tình hình dịch bệnh thấp, được Trung tâm chỉ huy dịch bệnh thông báo; đồng thời trước khi lên máy bay 14 ngày không đi đến các khu vực hoặc quốc gia khác.

Một số giải pháp của chính phủTừ điều tra của Tổng cục Thống kê (thời điểm từ 10/4/2020 đến 20/4/2020) theo hình thức trực tuyến với 126.565 doanh nghiệp tham gia khảo sát, ta thấy để ứng phó với những tác động từ dịch bệnh COVID-19 có: 66,8% số doanh nghiệp chọn việc triển khai các giải pháp liên quan đến vấn đề lao động; 44,7% số doanh nghiệp tiến hành biện pháp nâng góp phần nâng cao trình độ chuyên môn cũng như tay nghề cho người lao động; 5,4% doanh nghiệp áp dụng phương pháp chuyển đổi sản phẩm chủ lực; 7,7% doanh nghiệp áp dụng việc chọn nguyên liệu đầu vào từ những thị trường mới; 17% doanh nghiệp tìm thị trường đầu ra ngoài những thị trường là đối tác lâu dài.(BT (tổng hợp), 2020).

Mạng đồng tác giả là mạng lưới học thuật giữa các nhà nghiên cứu viết chung bài báo khoa học, mức độ kết hợp đồng tác giả có thể được đặc trưng bởi các độ đo liên kết. Đựa trên các đặc trưng đó, hình thành nhiều bài toán có ý nghĩa, trong đó có khuyến nghị cộng tác, gợi ý các tác giả có thể kết hợp trong tương lai hoặc tăng cường hợp tác. Bài báo này đề xuất một số độ đo liên kết mới dựa trên cộng đồng tác giả, kịch bản thiết lập bảng ứng viên động theo thời gian, và xây dựng một hệ khuyến nghị đồng tác giả sử dụng các độ đo đó.

Để hiểu được sự phát triển của công tác thông tin đối ngoại ở Việt Nam, bài viết này đã khảo sát hoạt động thông tin đối ngoại của Hồ Chí Minh - người đã đặt nền móng cho hoạt động này. Ngay từ buổi đầu cách mạng, Hồ Chí Minh đã sớm quan tâm đến tuyên truyền thông tin đối ngoại, coi đó là một phần quan trọng của công tác ngoại giao và công tác tuyên truyền. Bằng nhiều hình thức khác nhau, Hồ Chí Minh đã cung cấp nhiều thông tin hai chiều về Việt Nam cho thế giới và thông tin thế giới tới người dân Việt Nam. Những thông tin này đã góp phần lớn vào nâng cao nhận thức cho người dân Việt Nam về các vấn đề quốc tế, tạo sự đồng thuận trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc; tuyên truyền đường lối ngoại giao của Đảng, thể hiện rõ quan điểm chính trị của Việt Nam trong xây dựng mối quan hệ giữa các nước và giải quyết các vấn đề quốc tế thời kỳ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945.

Nghiên cứu nhằm phân tích tác động truyền thông tiếp thị tích hợp (IMC) đến quyết định mua xe ô tô trong kỷ nguyên số. Mô hình nghiên cứu được hình thành dựa trên lý thuyết học tập xã hội (social learning theory), truyền thông tiếp thị tích hợp (IMC) và quyết định mua hàng. Tác giả tiến hành phỏng vấn 384 khách hàng đã mua xe tại showroom ô tô tại Việt Nam. Bằng các công cụ thống kê mô tả, phân tích nhân tố khám phá (EFA), kiểm định độ tin cậy thang đo (CRA), phân tích nhân tố khẳng định (CFA) và mô hình cấu trúc tuyến tính (SEM), kết quả cho thấy có sự ảnh hưởng tích cực của tiếp thị trực tiếp, truyền miệng, quảng cáo, xúc tiến bán hàng - khuyến mãi, bán hàng cá nhân, quan hệ công chúng đến quyết định mua xe ô tô. Từ đó, nghiên cứu đưa ra các hàm ý quản trị nhằm giúp các doanh nghiệp kinh doanh xe ô tô có thể tập trung đẩy mạnh tiếp thị truyền thông và tăng cường doanh thu đồng thời mang lại giá trị đặc trưng thương hiệu xe trong ngành ô tô Việt Nam

Since marketing theory of 4 Ps has been developed based on the studies on large enterprises, so it cannot be applied to SMEs directly, where marketing practices may differ considerably from those of larger enterprises. Thus, the need to examine marketing practices and develop a theory of marketing in SMEs has been recognised. The paper shows that there is some misconceptions among the SME entrepreneurs/ owners/ managers that they think the investment in marketing as an unnecessary expenditure. In addition, all the entrepreneurs/ owners /managers do not possess marketing competencies as some may possess technical competencies, others may possess financial competencies. The paper reflects the gap in marketing practices which to be performed in SMEs and which are actually being performed. Two SME marketing models have been presented on the basis of various competency levels in the present paper. The model of Hill can be termed superior to that of Carson & Gilmore as it is more comprehe...

Nghiên cứu này nhằm khám phá tác động của Tính vị chủng, Căng thẳng kinh tế và Đánh giá sản phẩm lên sự không sẵn lòng mua hàng hóa Trung Quốc của người tiêu dùng Việt Nam. Dựa trên những sự kiện căng thẳng kinh tế gần đây giữa Việt Nam và Trung Quốc, nghiên cứu này đánh giá lòng tự hào dân tộc của người Việt Nam và sự không sẵn lòng mua hàng hóa Trung Quốc của họ như thế nào. Dựa trên dữ liệu thu thập từ 248 khách hàng, kết quả phân tích mô hình cấu trúc tuyến tính cho thấy sự không sẵn lòng mua hàng hóa Trung Quốc của người tiêu dùng Việt Nam chịu tác động của ba yếu tố là Căng thẳng kinh tế, Tính vị chủng và Đánh giá sản phẩm. Nghiên cứu này có thể hữu ích cho các doanh nghiệp Việt Nam trong việc phát triển các chiến lược kinh doanh và tiếp thị, đặc biệt là các doanh nghiệp nhập khẩu hoặc phân phối các hàng hóa Trung Quốc tại thị trường Việt Nam.