Phần tiếp giáp giữa đất liền và biển gọi là gì

Liên quan đến các tranh chấp lãnh thổ trên biển thì làm sao để có thể xác định được tranh chấp đó có nằm trong vùng biển của quốc gia mình hay không. Để hiểu rõ hơn về vấn đề này thì chúng ta cần phải có kiến thức liên quan đến đường cơ sở. Trong phạm vi bào viết dưới đây, luathoangphi.vn sẽ giải đáp thắc mắc liên quan đến Đường cơ sở là gì? Cách xác định đường cơ sở?

Khái niệm đường cơ sở

Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 và Luật biển Việt Nam năm 2018 không đưa ra định nghĩa cụ thể về đường cơ sở là gì. Tuy nhiên Điều 9, Điều 11 Luật biển Việt Nam khi quy định về nội thủy và lãnh hải thì có quy định:

Điều 9. Nội thuỷ

Nội thủy là vùng nước tiếp giáp với bờ biển, ở phía trong đường cơ sở và là bộ phận lãnh thổ của Việt Nam.

Điều 11. Lãnh hải

Lãnh hải là vùng biển có chiều rộng 12 hải lý tính từ đường cơ sở ra phía biển.

Ranh giới ngoài của lãnh hải là biên giới quốc gia trên biển của Việt Nam.”

Như vậy từ hai định nghĩa của nội thủy và lãnh hải có thể đưa ra một định nghĩa về đường cơ sở là gì? như sau: Đường cơ sở là đường ranh giới phía trong của lãnh hải và phía ngoài của nội thủy, do quốc gia ven biển hay quốc gia quần đảo định ra phù hợp với công ước của Liên hợp quốc về luật biển năm 1982 để làm cơ sở xác định phạm vi của các vùng biển thuộc chủ quyền và quyền tài phán quốc gia.

Cách xác định đường cơ sở?

Đường cơ sở được chia làm 03 loại bao gồm đường cơ sở thông thường, đường cơ sở thẳng và đường cơ sở quần đảo. Cách xác định đường cơ sở cụ thể như sau:

Điều 5 Công ước quốc tế về luật biển năm 1982 quy định về đường cơ sở thông thường:

Điều 5. Đường cơ sở thông thường

Trừ khi có quy định trái ngược của Công ước, đường cơ sở thông thường dùng để tính chiều rộng lãnh hải là ngấn nước triều thấp nhất dọc theo bờ biển, như được thể hiện trên các hải đồ tỷ lệ lớn đã được quốc gia ven biển chính thức công nhận.”

Trong trường hợp địa hỉnh, cấu trúc bở biển không thỏa mãn các điều kiện để áp dụng đường cơ sở thông thường thì các quốc gia có thể áp dụng đường cơ sở thẳng và đường cơ sở quẩn đảo.

Đường cơ sở thẳng được quy định trong Điều ước quốc tế về Luật biển năm 1982 là:

Điều 7. Đường cơ sở thẳng

1.Ở nơi nào bờ biển bị khoét sâu và lồi lõm hoặc nếu có một chuỗi đảo nằm sát ngay và chạy dọc theo bờ biển, phương pháp đường cơ sở thẳng nối liền các điểm thích hợp có thể được sử dụng để kẻ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải.

2.Ở nơi nào bờ biển cực kỳ không ổn định do có một châu thổ và những đặc điểm tự nhiên khác, các điểm thích hợp có thể được lựa chọn dọc theo ngấn nước triều thấp nhất có chuyển dịch vào phía trong bờ, các đường cơ sở đã được vạch ra vẫn có hiệu lực cho tới khi các quốc gia ven biển sửa đổi đúng theo Công ước.

3.Tuyến các đường cơ sở không được đi chệch quá xa hướng chung của bờ biển, và các vùng biển ở bên trong các đường cơ sở này phải gắn với đắt liền đủ đến mức đạt được chế độ nội thủy.

4.Các đường cơ sở thẳng không được kéo đến hoặc xuất phát từ các bãi cạn lúc nổi lúc chìm, trừ trường hợp ở đó có những đèn biển hoặc các thiết bị tương tự thường xuyên nhô trên mặt nước hoặc việc vạch các đường cơ sở thẳng đó đã được sự thừa nhận chung của quốc tế.

5.Trong những trường hợp mà phương pháp kẻ đường cơ sở thẳng được áp dụng theo khoản 1, khi ấn định một số đoạn đường cơ sở có thể tính đến những lợi ích kinh tế riêng biệt của khu vực đó mà thực tế và tầm quan trọng của nó đã được một quá trình sử dụng lâu dài chứng minh rõ ràng.

6.Phương pháp đường cơ sở thẳng do một quốc gia áp dụng không được làm cho lãnh hải của một quốc gia khác bị tách khỏi biển cả hoặc một vùng đặc quyền kinh tế.”

Đường cơ sở thẳng được áp dụng khi quốc gia có đường bờ biển lồi lõm, khúc khuỷu và khi áp dụng đường cơ sở thông thường sẽ rất khó khăn để có thể đo đạc. Trong trường hợp quốc gia có nhiều quần đảo thì cần phải có cách xác định đường cơ sở quần đảo.

Đường cơ sở quần đảo theo quy định tại Khoản 1 Điều 47 Công ước này quy định đường cơ sở thẳng của quần đảo nối liền các điểm ngoài cùng của các đảo xa nhất và các bãi đá lúc chìm lúc nổi của quần đảo và phải thỏa mãn các điều kiện sau:

+ Tuyến các đường cơ sở này bao lấy các đảo chủ yếu và xác lập một khu vực mà tỷ lệ diện tích nước đó với đất, kể cả vành đai san hô, phải ở giữa tỷ lệ số 1/1 và 9/1.

+ Chiều dài của các đường cơ sở này không vượt quá 100 hải lý; tuy nhiên có thể tối đa 3% của tổng số các đường cơ sở bao quanh một quần đảo nào đó có một chiều dài lớn hơn nhưng không quá 125 hải lý.

+ Không được tách xa rõ rệt đường bao quanh chung của quần đảo.

+ Các đường cơ sở không thể kéo đến hay xuất phát từ các bãi cạn lúc chìm lúc nổi, trừ trường hợp tại đó có xây đặt các đèn biển hay các thiết bị tương tự thường xuyên nhô trên mặt biển hoặc trừ trường hợp toàn bộ hay một phần bãi cạn ở cách hòn đảo gần nhất một khoảng cách không vượt quá chiều rộng lãnh hải.

+ Một quốc gia quần đảo không được áp dụng phương pháp kẻ các đường cơ sở khiến cho các lãnh hải của một quốc gia khác bị tách rời với biển cả hay với một vùng đặc quyền kinh tế.

+ Nếu một phần của vùng nước quần đảo của một quốc gia quần đảo nằm giữa hai mảnh lãnh thổ của một quốc gia kế cận, thì các thuyền và mọi lợi ích chính đáng mà quốc gia kế cận này vẫn được hưởng theo truyền thống ở trong các vùng nước nói trên, cũng như tất cả các quyền nảy sinh từ các điều ước được ký kết giữa hai quốc gia, vẫn tồn tại và vẫn được tôn trọng.

+ Để tính toán tỷ lệ diện tích các vùng nước so với diện tích phần đất đã nêu ở khoản 1, các vùng nước trên trong các bãi đá ngầm bao quanh các đảo và vành đai san hô, cũng như mọi phần của một nền đại dương có sườn dốc đất đứng, hoàn toàn hay gần như hoàn toàn do một chuỗi đảo đá vôi hay một chuỗi các mỏm đá lúc chìm lúc nổi bao quanh, có thể được coi như là một bộ phận của đất.

+ Các đường cơ sở được vạch ra theo đúng điều này phải được ghi trên hải đồ có tỷ lệ thích hợp để xác định được vị trí. Bản kê tọa độ địa lý của các điểm, có ghi rõ hệ thống trắc địa được sử dụng có thể thay thế cho các bản đồ này.

+ Quốc gia quần đảo công bố theo đúng thủ tục các bản đồ hoặc bảng liệt kê tọa độ địa lý và gửi đến Tổng thư ký Liên hợp quốc một bản để lưu chiểu.

Tóm lại, mỗi quốc gia có thể có cả đường cơ sở thông thường, đường cơ sở thẳng và đường cơ sở quần đảo. Đường cơ sở có ý nghĩa rất lớn trong việc xác định ranh giới các vùng biển. Đường cơ ở chính là điều kiện để có thể xác định được lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.

Trên đây là tư vấn của chúng tôi nhằm giải đáp thắc mắc Đường cơ sở là gì? Cách xác định đường cơ sở? để bạn đọc tham khảo.

Quý khách còn thắc mắc gì vấn đề này hoặc muốn biết thêm thông tin chi tiết thì vui lòng liên hệ với chúng tôi theo số tổng đài 1900 6557 để được tư vấn.

Việt Nam là quốc gia ven biển nằm bên bờ Tây của Biển Đông, có địa chính trị và địa kinh tế rất quan trọng không phải bất kỳ quốc gia nào cũng có. Vậy Đường bờ biển nước ta dài bao nhiêu km? Khách hàng quan tâm vui lòng theo dõi nội dung bài viết dưới đây của chúng tôi để biết thêm các thông tin hữu ích.

Vị trí địa lý của Việt nam

Về vị trí địa lý, nước ta là quốc gia nằm trên bán đảo Đông Dương thuộc khu vực Đông Nam Á, ven biển Thái Bình Dương, có đường biên giới trên đất liền tiếp giáp với Trung Quốc ở phía Bắc, với Lào và Campuchia ở phía Tây, phía Đông là biển Đông.

Đất nước có hình chữ S, kéo dài 1.650km từ bắc xuống nam. Về địa hình, 3/4 diện tích nước ta trên đất liền là đồi núi [chủ yếu là đồi núi thấp]. 1/4 diện tích còn lại là đồng bằng với 2 đồng bằng lớn: Bắc Bộ và Nam Bộ. Ba mặt Đông, Nam, Tây Nam của nước ta đều hướng ra biển.

Đường bờ biển dài bao nhiêu km?

Đường bờ biển là ranh giới tiếp xúc giữa đất liền và biển. Đường bờ biển Việt Nam kéo dài khoảng 13 vĩ độ từ Móng Cái [Quảng Ninh] qua mũi Cà Mau [cực Nam của tổ quốc] đến Hà Tiên [Kiên Giang] đi qua 28/63 tỉnh, thành phố ven biển của nước ta.

Thực ra tùy theo cách tính toán thì chiều dài đường bờ biển này sẽ có giá trị không giống nhau.Theo số liệu chính thức được công bố tại các website của Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch, bờ biển Việt Nam dài 3.260 km.

Theo tổ chức The World Factbook [một cơ quan xuất bản của Cục Tình báo Trung ương Hoa Kỳ] thì bờ biển Việt Nam dài 3.444 km. Chiều dài này không bao gồm bờ các đảo.

Như vậy với bờ biển Việt Nam dài trên 3.260km trải dài từ Bắc xuống Nam, từ Móng Cái ở phía Bắc đến Hà Tiên ở phía Tây Nam [chưa kể bờ biển của các hải đảo, đứng thứ 27 trong số 157 quốc gia ven biển, các quốc đảo và các lãnh thổ trên thế giới.

Cùng với trên 3.000 hòn đảo lớn nhỏ, bao gồm 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia có tiềm năng và lợi thế lớn về tài nguyên biển và hải đảo.

Chỉ số chiều dài bờ biển trên diện tích đất liền của nước ta là xấp xỉ 0,01 [nghĩa là cứ 100km2 đất liền có 1km bờ biển]. đứng đầu các nước Đông Dương, trên Thái Lan và xấp xỉ Ma-Lai-Xi-a. Trong 64 tỉnh, thành phố của cả nước thì 28 tỉnh, thành phố có biển và gần một nửa dân số sinh sống tại các tỉnh, thành ven biển.

Lợi ích của việc Việt Nam có bờ biển dài là gì?

– Thuận lợi cho việc đánh bắt sinh vật biển, là nguyên liệu cho ngành công nghiệp thực phẩm và công nghiệp hoá chất.

– Thuận lợi cho việc khai thác khoáng sản với trữ lượng lớn [muối, dầu khí, titan, zircon, thiếc, vàng, sắt, mangan, thạch cao, đất hiếm…].

– Giúp rút ngắn khoảng cách và thời gian đi lại cho các vùng miền, các quốc gia trên thế giới, thông qua phát triển các tuyến giao thông đường thủy.

– Các bãi cát rộng, dài; các phong cảnh đẹp tạo thuận lợi cho việc xây dựng các khu du lịch và nghỉ dưỡng.

Để giúp Khách hàng hiểu rõ những lợi ích mà đường bờ biển đem lại thì chúng tôi sẽ phân tích lợi ích cuối cùng mà chúng tôi vừa đề cập liên quan đến mảng du lịch. Cụ thể:

Dải đất hình chữ S hiện có 28 tỉnh thành giáp biển, chiếm 42% diện tích đất liền và 45% dân số toàn quốc, gồm Quảng Ninh, Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Bà Rịa – Vũng Tàu, TP.HCM, Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang.

Đoạn bờ biển từ Móng Cái [Quảng Ninh] đến Đồ Sơn [Hải Phòng] là cánh cung núi đá vôi Đông Triều lún xuống bị nước biển phủ lên biến các ngọn núi thành hàng nghìn hòn đảo muôn hình, muôn vẻ, tạo nên vùng thắng cảnh Hạ Long được UNESCO xếp vào danh sách các thắng cảnh thiên nhiên đẹp nhất thế giới.

Đồ Sơn – một bán đảo thon dài gồm 9 ngọn núi thấp kế tiếp nhau chạy ra biển, tạo ra một khu du lịch, nghỉ ngơi, tắm biển nổi tiếng. Phần còn lại của bờ biển phía Bắc là vùng ven biển đồng bằng Bắc Bộ, nhìn chung bằng phẳng.

Đoạn bờ biển Trung bộ kể từ Sầm Sơn [Thanh Hóa] đến ven biển Duyên hải miền Trung bờ biển trải dài và uốn lượn đan xen nhiều dạng hình cồn cát cao hoặc cát bồi do phù sa của các con sông đổ ra biển.

Trên nhiều chặng có những dãy núi nhỏ ngang ra biển tạo nên những bán đảo nhỏ, những vũng vịnh, bến cảng, những bãi tắm, nghỉ mát, du lịch nổi tiếng như dãy Hoành Sơn với đèo Ngang, dãy Hải Vân có đèo cao gần 500m; các cảng Cửa Lò [Nghệ An], Đà Nẵng, Dung Quất [Quảng Ngãi], Quy Nhơn, vịnh và cảng Cam Ranh; các bãi biển du lịch, nghỉ mát Sầm Sơn, Cửa Lò, Non Nước, Nha Trang, Mũi Né, Hòn Rơm …

Bờ biển phía Nam có một vùng núi nhỏ nhô ra, đó là Vũng Tàu – một khu du lịch, nghỉ mát nổi tiếng, còn lại là những bãi bồi ở các cửa sông Cửu Long, những rừng được ngập mặn ở Cà Mau và cuối cùng là một nhóm núi đá vôi ở Hà Tiên [Kiên Giang] phần ở trên bờ, phần nằm dưới biển tạo ra một cảnh thiên nhiên gần giống như Hạ Long của phía bắc.

Ven biển Đông và trên thềm lục địa Việt Nam có khoảng gần 4.000 hòn đảo, riêng vùng vịnh Bắc Bộ đã có tới gần 3.000 đảo, trong đó các đảo lớn là Cát Bà, Cát Hải, Bạch Long Vĩ.

Gần bờ biển Trung bộ có hàng trăm đảo khá lớn, trong đó tiêu biểu là đảo Hòn Mê, Hòn Mát, Cù lao Chàm, Cù lao xanh, Hòn Tre, Cồn Cỏ …

Ở giữa biển Đông có quần đảo Hoàng Sa gồm hơn 30 đảo đá, đảo san hô trên một vùng rộng khoảng 15.000km2.

Cách Hoàng Sa 240 hải lý về phía Nam là quần đảo Trường Sa gồm hơn 100 đảo lớn, nhỏ trên một vùng biển rộng 180.000km2. Cách Vũng Tàu gần 100 hải lý có 12 đảo lớn, nhỏ đó là Côn Đảo.

Trên vùng vịnh Thái Lan có 195 đảo, tổng diện tích 693 km2, gồm các cụm đảo Hòn Khoai, Hòn Chuối, Hòn Đá Bạc, các quần đảo Nam Du, Bà Lụa, Hải Tặc, cụm đảo Phú Quốc…Đảo Phú Quốc là đảo lớn nhất cả nước, rộng 593km2 [gần bằng diện tích Singapore – 648km2].

Khánh Hòa là tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ của Việt Nam, có phần lãnh thổ trên đất liền nhô ra xa nhất về phía biển Đông. Bờ biển Khánh Hòa dài 385km, dài nhất Việt Nam, với nhiều cửa lạch, đầm, vịnh, nhiều đảo và vùng biển rộng lớn.

Vùng biển Việt Nam thuộc Biển Đông – một trong những con đường giao thương hàng hải quốc tế nhộn nhịp nhất trên thế giới, nối liền Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương. Bờ biển mở ra cả 3 hướng Đông, Nam và Tây Nam nên rất thuận lợi cho việc giao lưu thương mại quốc tế và hội nhập kinh tế biển.

Trên đây là một số chia sẻ của chúng tôi về giải đáp thắc mắc liên quan đến đường bờ biển nước ta dài bao nhiêu km? Khách hàng quan tâm các thông tin liên quan khác vui lòng phản hồi trực tiếp để được hỗ trợ.

Video liên quan

Chủ Đề