Phương pháp Orff Schulwerk là gì

Những phương pháp giáo dục âm nhạc hiện nay được sử dụng nhiều trên thế giới phải kể đến như:

  • Phương pháp giáo dục âm nhạc Dalcroze
  • Phương pháp giáo dục âm nhạc Kodály
  • Phương pháp phương pháp giáo dục âm nhạc Orff Schulwerk

Kawai Music School

Music for Little Mozarts

LCM Anh Quốc

Dù phương pháp giảng dạy âm nhạc nào thì cũng có những đặc điểm sau:

  • Giáo dục âm nhạc là kiến tạo môi trường vui tươi thoải mái, không áp lực cho lớp học mà trong đó học sinh là là chủ thể chính của tất cả mọi hoạt động.
  • Không học vẹt, dạy vẹt mà phải cho học sinh trải học theo cách trải nghiệm rồi mới khái quát hóa khái niệm: “Không phải âm nhạc được tiếp cận từ khía cạnh trí tuệ và lý luận, cũng không nên truyền đạt âm nhạc cho trẻ em như một hệ thống các ký hiệu đại số, hoặc như một cách viết bí mật của ngôn ngữ không liên quan. Nên dùng cách đi thẳng vào trực giác [Kodály]
  • Việc học nhạc sẽ bao gồm các hoạt đồng: Nghe, chuyển độngcảm thụ âm nhạc. Không có sự tách rời giữa các yếu tố này, đó là tiền đề để học sinh hiểu, học, đam mê với âm nhạc mà không bị nhàm chán. Mỗi phương pháp khác nhau về công cụ thực hiện nhưng xét về căn bản thì đây là hoạt động không thể tách rời trong hoạt động dạy học
  • Tiết tấu, giai điệu và hòa âm là ba thành tố căn bản để tạo nên âm nhạc. Trong đó, tiết tấu luôn hiện diện trong hai thành tố còn lại nên nó đóng vai trò rất quan trọng trong việc dạy & học âm nhạc
  • Âm nhạc sử dụng để dạy & học thời gian đầu bao gồm những bản nhạc, bài hát theo các thang ngũ âm [pentatonic] để tránh hai nửa cung mi – fa và ti – do, được khai thác một cách ưu tiên từ các thể loại âm nhạc dân tộc của từng đất nước, vùng miền.
  • Ứng tác và sáng tạo là một công cụ củng cố và phát triển năng lực âm nhạc của cho học học sinh
  • Mỗi công cụ giáo dục âm nhạc trong mỗi phương pháp tuy độc lập về phương tiện diễn tả âm nhạc, nhưng phải được kết hợp chặt chẽ có tính hệ thống trong quá trình dạy – học.

Tại Việt Thương Music, các giáo trình âm nhạc của chúng tôi kết hợp tổng thể các phương pháp giáo dục âm nhạc hay để mang đến phương pháp học toàn diện nhất cho trẻ em tại Việt Nam.

Cách tự dạy mình học đàn piano

Tại sao 6 tuổi là thời điểm vàng để cho con học piano

Hãy xem qua 1 tiết học mẫu tại VTMS:

Và khi bạn cần sự tư vấn của Việt Thương Music hãy để lại thông tin để chúng tôi liên hệ!

NGUYỄN ĐĂNG BỬU
[Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam,Thành phố Hồ Chí Minh]

TÓM TẮT

     Bộ gõ cơ thể [Body Percussion], một công cụ dạy học âm nhạc của phương pháp Orff-Schulwerk, là nghệ thuật tạo nên các âm thanh bằng sự tương tác của các bộ phận của cơ thể. Bài viết gồm những kiến thức cơ bản về bộ gõ cơ thể trong dạy học âm nhạc nhằm giúp giáo viên và sinh viên sư phạm âm nhạc thực hiện tốt nhiệm vụ sư phạm của mình khi chương trình mới được áp dụng trong thời gian tới.

Từ khóa: bộ gõ cơ thể, các nội dung dạy học âm nhạc, phương pháp Orff-Schulwerk, phương pháp dạy học âm nhạc mới.

ABSTRACT

     Body percussion, a teaching tool of Orff-Schulwerk music education approach, is an art of creating sounds from different parts of the humn body. This article provides basic knowledge of body percussion in order to help music teachers and university students fulfill their educational duty when the new music curriculum is realized in the next years.

Keywords: body percussion, music teaching content, new music teaching method, Orff-Schulwerk method.

x
x x

1. Mở đầu

     Từ xa xưa, con người đã tạo ra những hoạt động mang tính nghệ thuật như hát, múa, để thể hiện quá trình lao động, đời sống, tâm linh…, tạo ra các điệu nhảy bằng những cách thức vỗ vào cơ thể với mục đích giao tiếp, sinh hoạt, thờ cúng tín ngưỡng. Do đó, từ “buổi bình minh” của nhân loại, con người đã biết dùng cơ thể như một nhạc cụ để tạo ra âm thanh [Naranjo, 2013]; vì thế, bộ gõ cơ thể được cho là có nguồn gốc xuất phát từ thời tiền sử dưới góc nhìn của các nhà Xã hội học, Nhân chủng học và Âm nhạc dân tộc học. Con người kể từ thời tiền sử luôn có âm nhạc trong tầm tay, như vậy có thể nhận định, nhạc cụ đầu tiên của con người chính là cơ thể. Thông qua nhiều giai đoạn của lịch sử phát triển, bộ gõ cơ thể ngoài việc trở thành môn nghệ thuật trong biểu diễn âm nhạc, còn được ứng dụng trong các phương pháp giáo dục âm nhạc hiện đại ở thế kỉ XX. Với quan điểm “âm thanh đi trước kí hiệu”, hướng việc vận động cơ thể giúp phát triển trí não và năng lực cảm thụ âm nhạc, cũng chính là cơ sở để hệ thống hóa, xây dựng và phát triển bộ gõ cơ thể từ mức độ thấp đến cao. Những phân tích dưới đây sẽ làm rõ khái niệm, quá trình hình thành và phát triển, đặc điểm âm nhạc và tính ứng dụng của bộ gõ cơ thể trong giáo dục âm nhạc cũng như trong thực tế đời sống.

2. Nội dung

     2.1. Quá trình hình thành và phát triển của bộ gõ cơ thể

     Sự hình thành và phát triển của bộ gõ cơ thể trong giáo dục âm nhạc, nhờ sự đóng góp của các nhà Âm nhạc dân tộc học và Sư phạm âm nhạc nổi tiếng trên thế giới như: Jaques-Dalcroze1, Zoltán Kodály2, Carl Orff3, Gunild Keetman4, Frank Churchley5… Trước khi có được thuật ngữ Body Percussion, là quá trình nghiên cứu âm nhạc của các nhà Dân tộc học về các tộc người. Jaques-Dalcroze đã dành nhiều năm sống ở Bắc Phi, đặc biệt tại Algeria, nghiên cứu những đặc điểm vận động cơ thể trong các hoạt động sinh hoạt đời sống của người dân bản địa và đã áp dụng trong phương pháp dạy học âm nhạc của ông với công cụ “vận động và cảm thụ âm nhạc”. Warner và Babatunde [1965] đã cho xuất bản ấn phẩm “Musical Istruments of Africa”, trong chương đầu tiên đã giới thiệu về Body Percussion. Warner và Babatunde đã giải thích khái niệm “body percussion” dưới góc độ dân tộc học và nêu rõ tầm quan trọng của phương thức âm nhạc này trong các hình thức sinh hoạt của các bộ lạc… Từ những nghiên cứu trên, các nhà sư phạm âm nhạc đã tìm hiểu và vận dụng vận động cơ thể vào phương pháp giáo dục âm nhạc của mình, với quan niệm cơ thể chính là một nhạc cụ giúp người học trải nghiệm âm nhạc. Các nhà sư phạm âm nhạc sử dụng thuật ngữ “body percussion” trong các tài liệu dạy học âm nhạc trong nhà trường; trong đó, Orff-Schulwerk đã phát triển bộ gõ cơ thể thành một công cụ dạy học âm nhạc quan trọng trong hệ thống phương pháp của ông. Ngoài ra, bộ gõ cơ thể còn được ứng dụng trong các lĩnh vực khác như: về y tế: điều trị tâm lí, các hội chứng về thần kinh và não bộ…; về thể dục thể thao: rèn luyện và phát triển thể chất…

     2.1.1.Khái niệm

     Thuật ngữ Body Percussion [được dịch sang tiếng Việt là bộ gõ cơ thể] – là một từ ghép của hai từ body [cơ thể] và percussion [bộ gõ], mang ý nghĩa âm thanh được tạo ra từ cơ thể. Cơ thể chính là nhạc cụ ban đầu trong hoạt động dạy học âm nhạc, giúp học sinh trải nghiệm âm nhạc thông qua vận động, để tạo ra âm thanh và nhịp điệu. Cũng như các nhạc cụ bộ gõ khác, phát ra âm thanh bằng cách chạm, vỗ, lắc… vào nhạc cụ để tạo rung động, bao gồm: tiếng vỗ tay [clapping], búng ngón tay [snapping], vỗ ngực [slapping on the chest], vỗ đùi [slapping on the thigh], và dậm chân [stamping]. Đây chính là năm âm thanh cơ bản của BỘ GÕ CƠ THỂ, ngoài ra còn có những động tác khác.

     2.1.2. Sự hình thành

     Theo nghiên cứu Âm nhạc dân tộc học, bộ gõ cơ thể có nguồn gốc rất đa dạng và phong phú, xuất hiện hiện trong các hình thức sinh hoạt, hoạt động múa hát, lao động, giao tiếp và nghi lễ của các bộ lạc ở châu Phi, Đông Nam Á, châu Mĩ… Những thổ dân của các bộ lạc họ sử dụng các vận động cơ thể này để thể hiện các nghi thức sinh hoạt thờ cúng thần linh, lễ tế, tái hiện việc lao động, các mối quan hệ xã hội…, thông qua đó để giao tiếp với nhau thay ngôn ngữ nói. Theo thời gian, bộ gõ cơ thể được hình thành nên từ những nét sinh hoạt cộng đồng của các tộc người, được gìn giữ và phát triển cho đến ngày nay, tất cả trở thành nét nghệ thuật đặc trưng trong văn hóa bản địa [Prezi, 2015]. Đơn cử các thể loại âm nhạc sau:

     – Thể loại Gumboot được tìm thấy ở Châu Phi, họ sử dụng bộ gõ cơ thể như một bộ trống để ra hiệu với nhau trong quá trình lao động khai thác kim cương thời thuộc địa. Ngày nay, Gumboot phát triển thành vũ điệu để tôn vinh những cuộc đấu tranh trong quá khứ.

     – Thể loại Saman được tìm thấy ở Indonesia. Đây là điệu múa trong nghi lễ tôn giáo truyền thống của người Indonesia, họ sử dụng bộ gõ cơ thể một cách khéo léo và tinh tế ở
nhịp độ nhanh.

     – Thể loại Flamenco được tạo ra bởi những người Gypsy Tây Ban Nha – một thể loại âm nhạc được kết hợp với điệu nhảy. Đặc trưng của của điệu nhảy này đó là vỗ tay, dậm chân.

     – Thể loại Clogging được tìm thấy ở Vương quốc Anh, trong giai đoạn cách mạng công nghiệp. Tại các nhà máy, công nhân thường áp dụng các vận động để giữ cho bàn chân khô ráo. Hiện nay, thể loại Clogging phát triển và được biết đến như nghệ thuật gõ gót giày. Cách thực hiện dậm chân để gõ gót giày trên sàn nhà kết hợp với các tác phẩm dân ca.

     – Thể loại Irish Step Dancing được hình thành ở Ireland, sử dụng chuyển động nhanh của chân, thân với tay.

     – Điệu nhảy Hambone Juba [Juba Dance], được hình thành từ những người công nhân nô lệ người Mĩ gốc Phi trong các cuộc hội họp của họ. Họ không dùng nhạc cụ mà thay vào đó là dùng bộ gõ cơ thể bằng cách vỗ tay, dậm chân, vỗ ngực, vỗ má, và kết hợp với những bài hát truyền thống để giao tiếp và sinh hoạt cộng đồng.

     – Tap Dance [America tap] được phát triển từ sự kết hợp giữa Juba và Irish Step Dancing. Tap Dance mang phong cách sân khấu âm nhạc Broadway, âm nhạc mang màu sắc của Jazz.

     – Catira là một loại vũ điệu dân gian ở Brazil, nó bắt ngồn từ sự pha trộn giữa các nền văn hoá bản địa và Châu Âu. Động tác chủ yếu kết hợp giữa dậm chân và vỗ tay.

     – Kathak xuất phát từ chữ “Katha”, là điệu nhảy có nguồn gốc từ miền Bắc Ấn Độ. Phong cách nhảy này thường kể về một câu chuyện như: thần Hindu, câu chuyện Mahabharata, Purana Raymayana… Điệu nhảy có những chuyển động nhanh, các vũ công thường đeo chuông trên cổ chân và dậm chân xuống sàn để tạo ra những tiết tấu và âm thanh nhịp nhàng kết hợp với âm nhạc.

     Đến nay, chưa có nghiên cứu nào nêu chính xác sự xuất hiện của bộ gõ cơ thể từ thời gian nào, chỉ biết rằng nó có nguồn gốc từ rất xa xưa. Tuy vậy, tên gọi Body Percussion chỉ mới xuất hiện từ những năm 1920 của thế kỉ XX [Naranjo, 2013], do các nhà sư phạm âm nhạc, âm nhạc dân tộc học…, tổng hợp thực tế từ quá trình áp dụng vận động cơ thể vào hoạt động giáo dục âm nhạc và đã đặt tên.

     2.1.3. Sự phát triển

     Quá trình phát triển được tổng hợp qua ba giai đoạn:

     – Giai đoạn Khảo cứu: từ những nghiên cứu của các nhà Âm nhạc dân tộc học về văn hóa của các tộc người, từ đó phát hiện việc sử dụng vận động cơ thể trong các sinh hoạt cộng đồng.

     – Giai đoạn Hình thành: thấy rõ tầm quan trọng từ việc vận động cơ thể đối với sự hình thành phát triển âm nhạc cho trẻ, đã tạo nên các phương pháp giáo dục âm nhạc.

     – Giai đoạn Ứng dụng: vận động cơ thể trong các phương pháp giáo dục âm nhạc được áp dụng và mang lại hiệu quả trong việc giáo dục âm nhạc cho trẻ em, từ đó hình thành tên gọi thuật ngữ để xác định việc giáo dục âm nhạc bằng vận động cơ thể.

     Vận động và cảm thụ âm nhạc lần đầu tiên xuất hiện trong phương pháp giáo dục âm nhạc của Emily Jaques-Dalcroze – gọi là Dalcroze Eurhythmics6. Với quan điểm “Âm thanh đi trước kí hiệu” của Pestalozzi7, Dalcroze phát triển giáo dục âm nhạc cho trẻ em thông qua vận động dưới các hình thái khác nhau về tiết tấu [Campbell, 1991]. Với Carl Orff – học trò ưu tú của Jaques-Dalcroze, đã phát triển vận động cơ thể và cảm thụ âm nhạc có phần vượt trội hơn thông qua công cụ bộ gõ cơ thể. Theo Orff, trẻ nghe, mô phỏng và thực hành trước sau đó mới đến đọc và viết [Shamrock, 2007]. Quan điểm trên tương tự với việc học một ngôn ngữ nào đó với các nội dung: nghe, nói, đọc, viết. Việc học nhạc cũng trải qua các nội dung tương ứng: nghe nhạc, thực hành âm nhạc, đọc nhạc [xướng âm], viết nhạc [kí âm]. Về vấn đề vận động cơ thể và cảm thụ âm nhạc, bài báo khoa học “Khái quát phương pháp dạy học âm nhạc tại Hoa Kì” của Hồ Ngọc Khải [2012] có nhận định rằng:

Với Orff-Schulwerk, âm nhạc tồn tại đa thành phần [elemental] mà không riêng rẽ, nghĩa là âm nhạc phải gắn kết với động tác, vận động, vũ điệu, và nói – xướng theo vần điệu [speech]. Vì thế, trẻ em học âm nhạc không phải chỉ nghe, đọc, xướng mà phải được tham gia, trải nghiệm âm nhạc qua vận động và chơi đùa [music and movement]. Vận động âm nhạc gồm các vận động tại chỗ [non-locomotor movement] và vận động chuyển dịch [locomotor movement]. Các vận động âm nhạc được thể hiện trong không gian, thời gian, và các mức độ sử dụng năng lượng cơ thể, được thiết kế theo những mẫu hoặc cấu trúc âm nhạc đặc trưng” [Hồ Ngọc Khải, 2012, tr. 3].

     Phương pháp giáo dục âm nhạc Orff-Schulwerk về vận động cảm thụ âm nhạc được phát triển vượt trội, trở thành một công cụ chính trong hoạt động dạy học với tên gọi Body Percussion. Ngày nay, bộ gõ cơ thể phát triển rất mạnh như là một bộ môn nghệ thuật độc lập, kết hợp với hát, hợp xướng, múa đương đại… và được áp dụng trong chương trình giáo dục âm nhạc ở các nước tiên tiến như: Singapore, Nhật, Canada, và đặc biệt là Hoa Kì.

     2.2. Đặc điểm âm nhạc và ứng dụng của Bộ gõ cơ thể

     Bộ gõ cơ thể theo phương pháp Orff-Schulwerk là một nhạc cụ không định âm, dùng cơ thể tạo ra âm sắc thông qua các động tác vận động từ cơ bản đến phức tạp. Các âm thanh được thay đổi liên tục theo một nhóm âm hình tiết tấu nào đó, bằng sự kết hợp các động tác, tạo thành một tác phẩm âm nhạc đầy màu sắc. Tùy vào lứa tuổi, quá trình luyện tập bộ môn bộ gõ cơ thể sẽ có những cấp độ khác nhau được phân chia theo trình độ, khả năng và độ khó.

     2.2.1.Các động tác của bộ gõ cơ thể

     Bộ gõ cơ thể dựa trên âm thanh được tạo ra từ 5 động tác cơ bản trên cơ thể theo thứ tự sau:

     – Búng ngón tay [Snapping] [bao gồm tay trái, tay phải hoặc cả hai], âm thanh phát ra bởi tác động của các ngón tay khi chụm vào nhau, búng và tạo ra âm thanh.

     – Vỗ ngực [Slapping on the Chest], âm thanh phát ra bởi tác động của lòng bàn tay vào vùng ngực trái và phải, tạo ra âm thanh.

     – Vỗ tay [Clapping], âm thanh phát ra bởi sự tác động của hai tay chạm vào lòng bàn tay để tạo ra âm thanh.

     – Vỗ đùi [Slapping on the Thigh] [bao gồm chân trái, chân phải hoặc cả hai], âm thanh phát ra bởi sự tác động một lực từ tay vào vùng đầu gối ở chân và tạo ra âm thanh.

     – Dậm chân [Stamping] [bao gồm chân trái, chân phải hoặc cả hai], âm thanh phát ra bởi sự tác động một lực từ chân vào nguồn phát ra âm thanh [mặt sàn gỗ, mặt sàn gạch], tạo ra những sự cộng hưởng âm thanh khác nhau.

     – Ngoài ra, còn có các động tác tạo ra âm thanh khác như: chà xát lòng bàn tay [horizontal hand rubbing], vỗ miệng [mouth clapping]…

     Đối với học sinh bắt đầu làm quen với âm nhạc, chưa nhận biết được nốt nhạc, chỉ có thể mô phỏng lại các động tác cơ bản sau khi giáo viên làm mẫu, tiếp đó sẽ nhìn hình ảnh minh họa để thực hiện và phát triển những nhóm tiết tấu đơn giản. Khi học sinh đã làm quen với việc mô phỏng các động tác, giáo viên sẽ hướng dẫn học sinh về hệ thống kí hiệu các động tác được viết trên khuông nhạc [tương tự như kí hiệu của trống jazz và các loại nhạc cụ không định âm khác]. Đồng thời hướng dẫn học sinh tập luyện tiết tấu với các bài tập đơn giản dựa trên những kí hiệu đó. [Richard Filz, 2005].

[Kí hiệu ghi âm của các động tác được mã hóa thành nốt trên khuông nhạc theo Richard Filz
trong sách Body Percussion Sounds and Rhythms, 2005].

     2.2.2.Một số mẫu động tác cơ bản

     a. Các động tác cơ bản

     Vận động cơ bản của bộ gõ cơ thể dựa trên nền tảng của các động tác cơ bản kết hợp với các nhóm tiết tấu đơn giản. Giáo viên hướng dẫn học sinh thực hành những mẫu luyện tập đơn giản, theo cá nhân riêng lẻ hoặc từng nhóm. Sau khi thành thạo, giáo viên hướng dẫn học sinh kết hợp hòa bè với nhau theo các mẫu luyện tập. Hòa bè theo dạng bè đuổi [canon], theo âm hình trì tục [ostinato], chơi độc lập hoặc đệm cho bài hát, hay kết hợp với các nhạc cụ khác như một bè đệm.

     b. Các mẫu bài tập

     Dưới đây là một số mẫu bài tập giúp người học bước đầu thực hành bộ gõ cơ thể

      Tập làm quen với những động tác cơ bản [động tác độc lập]

      Bài tập kết hợp 1: 2 động tác cơ bản

    Bài tập đệm hát: [Từ 2 – 3 động tác kết hợp đệm]

     Đệm cho bài hát Cô giáo em

     Mẫu 1

      Đệm cho bài hát Sắp đến Tết rồi

     Mẫu 2

     Đệm cho bài hát Lý cây xanh

    Mẫu 3

    Bài tập hòa âm: [Từ 2, 3, 4 … mẫu âm kết hợp theo chiều dọc] và kết hợp nhạc cụ gõ.

    Bài tập hòa âm + nhạc cụ gõ + đệm hát

     Ví dụ: mẫu đệm cho bài Đồng dao Nu na nu nống

NU NA NU NỐNG
     
Đồng dao Bắc Bộ

Nu na nu nống

Cái trống nằm trong, con ong nằm ngoài

Củ khoai chấm mật, mật ngồi mật khóc

Con cóc nhảy ra, con gà ú ụ

Bà mụ thổi xôi, nhà tôi nấu chè

Tay xèo chân rụt

     2.2.3. Những ứng dụng của Bộ gõ cơ thể ngày nay

     Bên cạnh ứng dụng vào giáo dục âm nhạc, bộ gõ cơ thể còn được ứng dụng ngoài ngành như: y học, chăm sóc sức khỏe, phát triển thể chất, điều trị tâm lí… Chính sự vận động cơ thể đã tác động tích cực đến hệ thần kinh của con người, giúp phát triển trí não và thể chất. Có thể nói, bộ gõ cơ thể rất đa dạng, mang tính ứng dụng cao trong thực tiễn đời sống và đã trở thành một bộ môn nghệ thuật âm nhạc đặc sắc. Tính ứng dụng được thể hiện qua một số lĩnh vực khoa học sau:

     a. Trong Y học

     Phương pháp BAPNE8 dùng bộ gõ cơ thể để điều trị các bệnh lí về thần kinh, trí não… dựa trên cơ sở khoa học của năm chuyên ngành khoa học: Sinh học, Giải phẫu học, Tâm lí học, Thần kinh học, Âm nhạc dân tộc học. Từ quan điểm điều trị bệnh lí, bộ gõ cơ thể có giá trị rất lớn, chính là nền tảng trị liệu hiệu quả đối với các bệnh nhân bị bệnh Alzheimer9, Parkinson10, Down11, tổn thương não, hội chứng khó đọc, rối loạn chuyển động, tự kỉ, hội chứng trầm cảm…; và đã thu được những kết quả khả quan. Thông qua các bài tập bệnh nhân cải thiện được nhận thức, tâm lí. Ứng dụng này giống việc điều trị vật lí trị liệu, mang lại hiệu quả tích cực cho người bệnh. Bên cạnh đó, phương pháp BAPNE còn chú trọng giáo dục sớm cho trẻ em từ 3-6 tuổi giúp phát triển hệ thần kinh trung ương và trí não cho trẻ [Naranjo, 2013].

     b. Trong giáo dục – rèn luyện thể chất

     Hoạt động rèn luyện thể chất cơ bản đó chính là sự vận động cơ thể để giúp tiêu hao calorie [cal], giảm chất béo [lipit] trong cơ thể. Tương tự như rèn luyện các động tác thể dục [gym], rèn luyện bộ gõ cơ thể cũng giúp ích trong việc tiêu hao năng lượng thừa trong cơ thể, đặc biệt rèn luyện ở cường độ cao.

     c. Trong giáo dục âm nhạc

     Đến thế kỉ XX, các phương pháp giáo dục âm nhạc rất phát triển từ những nghiên cứu của các nhà sư phạm như: Dalcroze, Orff-Schulwerk, Kodály, Montessori12…, nhà triết học Maurice Merleau-Ponty13 và nhà tâm lí học lâm sàng, lí luận giáo dục Thomas Gordon14. Họ cho rằng âm nhạc không còn được xem là một hiện tượng thuần túy về trí tuệ mà là một trải nghiệm về thân thể, vì thế trong các phương pháp giáo dục âm nhạc trên đều có chung quan điểm cho rằng: “vận động cơ thể giúp phát triển khả năng tiếp thu và sáng tạo âm nhạc”. Phương pháp Orff-Schulwerk phát triển việc sử dụng bộ gõ cơ thể một cách triệt để, như là một công cụ trong luyện tập âm nhạc; tạo ra những hoạt động đặc biệt mà ông và những nhà sư phạm âm nhạc đã tổng hợp, kế thừa và hệ thống. Bộ gõ cơ thể có thể được trình diễn độc tấu hoặc một số nghệ sĩ có thể kết hợp để tạo ra một tác phẩm âm nhạc. Một trong những nghệ sĩ solo thành công nhất đó là Keith Terry15, San Francisco –California – USA.

     Bộ gõ cơ thể được sử dụng rộng rãi trong nền giáo dục âm nhạc ở các nước tiên tiến, do khả năng tiếp cận của nó, xem cơ thể con người là một nhạc cụ và là dụng cụ duy nhất mà mỗi học sinh sở hữu trước khi học những nhạc cụ khác. Sử dụng bộ gõ cơ thể cho học sinh trải nghiệm trực tiếp các yếu tố âm nhạc như: nhịp điệu, tiết tấu, sự vận động của âm nhạc.

     Bộ gõ cơ thể còn được sử dụng trong hợp xướng với các mục đích khác nhau. Kết hợp trong sự sáng tạo, cộng hưởng các yếu tố về âm thanh để tạo nên một sự trải nghiệm mới về việc nghe và cảm thụ hợp xướng. Ví dụ: sự kết hợp các tiếng động chà xát bàn tay, dậm chân, búng ngón tay… tạo thành những tiếng mô phỏng gió, mưa, sấm chớp trước khi vào phần hát; hoặc là phần nhạc đệm cho tác phẩm hợp xướng [không dùng dàn nhạc đệm hoặc nhạc nền]; hoặc kết hợp cùng với dàn nhạc giao hưởng đệm cho hợp xướng đồng thời làm tăng thêm yếu tố về cảnh trí và bố cục về mặt dàn dựng, làm cho tác phẩm hợp xướng thêm sinh động và thu hút.

3. Kết luận

     Thông qua nghiên cứu các vấn đề lí luận và thực tiễn có thể chứng minh rằng ứng dụng bộ gõ cơ thể trong hoạt động dạy học âm nhạc rất cần thiết và hiệu quả. Học sinh có thể tiếp cận với âm nhạc một cách trực tiếp, đơn giản và tự nhiên. Các vận động cơ thể giúp học sinh trải nghiệm được các yếu tố lí tính khi tự chủ động chạm vào cơ thể của mình. Bên cạnh đó, phương thức âm nhạc này còn giúp học sinh phát triển trí não, hệ thần kinh và khả năng tư duy. Việc vận dụng bộ gõ cơ thể trong giáo dục âm nhạc có thể phát triển năng lực cảm thụ và vận động âm nhạc cho học sinh, mang lại ý nghĩa quan trọng trong việc hình thành những năng lực cần thiết để thể hiện âm nhạc, cảm thụ và hiểu biết âm nhạc, ứng dụng và sáng tạo âm nhạc. Qua đó, hình thành và phát triển các phẩm chất âm nhạc nổi bậc, nhằm định hướng phát triển rèn luyện bộ môn nghệ thuật này, đồng thời giáo dục và rèn luyện nhân cách cho học sinh.

     Đối với chương trình giáo dục xây dựng theo định hướng phát triển năng lực, hoạt động dạy học nói chung và hoạt động dạy học âm nhạc nói riêng đã chuyển sang một bước tiếp cận mới về nội dung, phương pháp và đánh giá. Học sinh không còn học âm nhạc một cách thụ động, mà thông qua hoạt động dạy học của giáo viên, giúp học sinh trải nghiệm và khám phá năng lực của bản thân bằng âm nhạc. Bộ gõ cơ thể có thể được cho là “mới”  là “lạ” đối với giáo dục âm nhạc Việt Nam, nhưng nếu được nghiên cứu và vận dụng một cách hệ thống, chắc chắn mang lại niềm vui, sự hứng khởi cho học sinh; tạo môi trường học tập âm nhạc sôi động và đa dạng trong chương trình giáo dục nhà trường.

__________
1 Jaques-Dalcroze [1865 – 1950]: là nhà soạn nhạc, sư phạm âm nhạc người Thuỵ Sĩ. Ông đã sáng tạo ra phương pháp giáo dục âm nhạc Dalcroze.

2 Zoltán Kodály [1882 – 1967]: là nhà soạn nhạc, sư phạm âm nhạc người Hungari. Ông đã sáng tạo ra phương pháp giáo dục âm nhạc Kodály.

3 Carl Orff [1895 – 1982]: là nhà soạn nhạc, sư phạm âm nhạc người Đức. Ông đã cùng Gunild Keetman sáng tạo ra phương pháp giáo dục âm nhạc Orff-Schulwerk.

4 Gunild Keetman [1904 – 1990]: đồng sáng lập phương pháp giáo dục âm nhạc Orff-Schuwerk.

5 Frank Churchley [1930]: là nhà giáo dục, nghệ sĩ Piano người Canada.

6 Dalcroze Eurhythmics: vận động và cảm thụ âm nhạc theo Dalcroze.

7 Johann Heinrich Pestalozzi [1746-1827] nhà giáo dục âm nhạc người Thuỵ Sĩ.

8 BAPNE: là từ viết tắt của năm môn khoa học Biomechanics, Anatomy, Psychology, Neuroscience, và Ethnomusicology. Mục đích của phương pháp này chính là phát triển trí não thông qua công cụ Bộ gõ cơ thể.

9 Bệnh Alzheimer [hay gọi là AD, SDAT]. Vào năm 1906, bác sĩ tâm lí và thần kinh học người Đức Alois Alzheimer đã phát hiện ra căn bệnh này.

10 Bệnh Parkinson [hay gọi là PD] là một rối loạn của hệ thần kinh trung ương gây ảnh hưởng đến khả năng cử động và kiểm soát cơ thể của bệnh nhân.

11 Hội chứng Down do đột biến số lượng nhiễm sắc thể ở nhiễm sắc thể 21.

12 Maria Montessori [1870 – 1952]: là nhà trị liệu, giáo dục người Ý.

13 Maurice Merleau-Ponty [1908 – 1961]: nhà triết học người Pháp.

14 Thomas Gordon [1918 – 2002]: nhà tâm lí học lâm sàng, lí luận giáo dục người Mĩ.

15 Keith Terry [1951]: nghệ sĩ biểu điễn Body Percussion người Mĩ.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Hồ Ngọc Khải. [2012]. Khái quát về một số phương pháp dạy học âm nhạc cho trẻ em tại Hoa Kì hiện nay. Kỉ yếu Hội thảo khoa học về dạy học Âm nhạc, Mĩ thuật, Thể dục ở trường phổ thông, Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Campbell, P. S. [1991]. Rhymic movement and public school education: progressive views in the formative years, [12-22]. American Music Education.

Meghranjani Medhi. [2018]. Khai thác từ:
//www.youtube.com/watch?v=1ZmCmQjoehw, truycập ngày 17/5/2018,

Naranjo, F. J. [2013]. Science & Art of Body Percussion. University of Alicante.

Prezi. [2015]. Body Percussion and the history. Khai thác từ
//prezi.com/ne9mufjlruv7/bodypercussion-the-history/, truy cập từ 15.03.2018

Richard Filz. [2005]. Body Percussion Sounds and Rhythms. A Comprehensive Training System.

Shamrock, M. [2007]. American Orff-Schulwerk Association. The Orff-Schulwerk Approach.

Nguồn: Tạp chí Khoa học Trường Đại học Sư Phạm TP.HCM,
Tập 16, Số 4 [2019]: 170-179

Thánh Địa Việt Nam Học
[//thanhdiavietnamhoc.com]

Video liên quan

Chủ Đề