Tại sao ở trẻ nhỏ khi bị gãy xương nhanh lành hơn người già
Show
Gãy xương là hiện tượng phá vỡ xương. Hầu hết các loại gãy xương cần một lực mạnh tác động lên xương bình thường. Ngoài gãy xương, còn có kèm theo các thương tổn phần mềm hệ cơ xương.
Các chấn thương hệ cơ xương khớp rất thường gặp và đa dạng về cơ chế, mức độ nghiêm trọng cũng như điều trị. Các chi, cột sống và khung chậu đều có thể bị ảnh hưởng. Một số loại gãy xương đã được thảo luận trong các phần khác của cuốn The Manual:
Chấn thương hệ cơ xương khớp có thể xảy ra đơn độc hoặc là một phần trong đa chấn thương (xem Tiếp cận bệnh nhân chấn thương Tiếp cận bệnh nhân chấn thương đọc thêm ). Hầu hết các chấn thương hệ cơ xương khớp gây ra bởi vật tù, nhưng tất nhiên các vật sắc nhọn cũng có thể gây tổn thương hệ này. Sinh lý bệnhCó thể kèm gãy xương
Gãy xương bệnh lý xảy ra với chỉ những chấn thương rất nhẹ lên một vùng xương yếu do các bệnh lý gây ra (ví dụ như loãng xương, ung thư, nhiễm trùng, nang xương). Khi nguyên nhân là do loãng xương Loãng xương Loãng xương là bệnh xương chuyển hóa tiến triển làm giảm mật độ xương (khối lượng xương trên một đơn vị thể tích), kèm suy giảm cấu trúc xương. Xương yếu dẫn đến gãy xương với chấn thương nhỏ... đọc thêm , loại gãy này thường được gọi là gãy giòn. Gãy mỏi Gãy mỏi Gãy mỏi là gãy xương nhỏ không hoàn toàn thường liên quan đến thân khối xương bàn chân Nguyên nhân do trọng lượng cơ thể lặp đi lặp lại trên một vị trí xương. Gãy mỏi thường gây ra tổn thương... đọc thêm xảy ra khi có những chấn thương lặp đi lặp lại, có thể xảy ra ở những vận đồng viên chạy đường dài hay những người lính khi hành quân phải tải nặng. Thông thường, các tổn thương lên xương do các vi chấn thương ở mưc độ vừa phải có thể được tự sửa chữa khi nghỉ ngơi, tuy nhiên việc chấn thương lặp đi lặp lại tại cùng một vị trí sẽ dẫn tới các thương tổn phức tạp hơn cũng như làm các vi chấn thương truyền rộng ra. Hồi phụcXương sẽ liền lại ở những mức độ khác nhau, tùy thuộc vào tuổi của bệnh nhân và các bệnh lí kèm theo. Ví dụ, trẻ em liền xương nhanh hơn người lớn; các bệnh làm giảm sự tuần hoàn ngoại vi (ví dụ, tiểu đường, bệnh mạch máu ngoại biên) gây kéo dài thời gian liền xương Sự liền xương xảy ra qua 3 giai đoạn chồng chéo nhau:
Pha viêm xảy ra trước tiên. Có hiện tượng hình thành cục máu tụ tại chỗ gãy xương, và một lượng nhỏ các mảnh vỡ xương ở đầu ngoại vi được tái hấp thu. Một đường gãy không biểu hiện rõ ràng ở lúc ban đầu (ví dụ như ở một số loại gãy xương không di lệch), có thể sẽ rõ hơn sau 1 tuần bởi hiện tượng tái hấp thu một lượng xương nhỏ. Có sự hình thành can xương trong suốt pha tái tạo. Hiện tượng tân tạo mạch máu cho phép hình thành sụn băng qua đường gãy. Bất động (ví dụ bằng bột) là cần thiết trong 2 giai đoạn đầu để các mạch máu có thể phát triển. Giai đoạn tái tạo kết thúc bằng biểu hiện liền trên lâm sàng (tức là khi hết đau tại chỗ gãy, vận động không đau và khám lâm sàng không phát hiện chuyển động xương). Trong pha hồi phục, các can xương, thứ có nguồn gốc từ sụn, sẽ tiến hành cốt hóa, xương được hấp thu và tái tạo lại. Trong giai đoạn này, bệnh nhân nên được hướng dẫn từ từ tập vận động lại phần chi thể tổn thương về bình thường, bao gồm cả bắt đầu tập tì. Biến chứngCác biến chứng nặng nề của gãy xương tuy hiếm gặp, nhưng cũng có thể gây giảm chức năng vĩnh viễn, tàn phế, và thậm chí tử vong. Gãy xương hở dễ bị nhiễm trùng, các loại gãy xương kèm tổn thương mạch máu, thần kinh, dập nát phần mềm nhiều là những loại gãy có nguy cơ xảy ra biến chứng cao. Gãy xương kín không kèm tổn thương mạch máu, thần kinh, được nắn chỉnh sớm thì ít khi xảy ra biến chứng nặng nề. Các biến chứng ngay (tổn thương phối hợp) bao gồm:
Các biến chứng muộn của gãy xương bao gồm:
Tài liệu tham khảo
Đánh giá
Tại khoa cấp cứu, nếu phát hiện cơ chế chấn thương có nguy cơ gây các thương tích nghiêm trọng hoặc đa chấn thương (như trong trường hợp tai nạn xe máy tốc độ cao, ngã cao), bệnh nhân cần được đánh giá ban đầu toàn bộ từ đầu đến chân để phát hiện các thương tổn nguy cơ cao, và nếu cần thiết thì tiến hành hồi sức ngay ([xem Tiếp cận bệnh nhân chấn thương Tiếp cận bệnh nhân chấn thương đọc thêm ). Những bệnh nhân có gãy xương đùi hay vỡ xương chậu có thể dẫn tới tình trạng sốc mất máu do lượng máu mất đi rất lớn. Nếu một chi bị chấn thương, cần kiểm tra ngay đó có phải là gãy hở không, kiểm tra các dấu hiệu tổn thương thần kinh, mạch máu ( như tê bì, mất vận động cảm giác, giảm tưới máu) và đánh giá hội chứng khoang (đau không tương xứng tổn thương, da nhợt, tê bì, đầu chi lạnh, mất mạch). Bác sĩ lâm sàng có thể nghi ngờ gãy xương chỉ cần dựa trên các triệu chứng cơ năng cũng như kết quả của việc thăm khám thực thể, tuy nhiên các phương tiện chẩn đoán hình ảnh (thường là Xquang) là cần thiết để xác nhận chẩn đoán. Bệnh nhân gãy xương cần được thăm khám thêm cả hệ thống dây chằng, gân, cơ. Tuy nhiên, việc gãy xương sẽ làm hạn chế việc thăm khám (thí dụ, không thể thực hiện các nghiệm pháp stress vì bệnh nhân quá đau). Các khớp lân cận bao gồm trên và dưới khớp tổn thương cũng cần được kiểm tra. Lịch sửCơ chế tổn thương (ví dụ, hướng và cường độ của lực tác động) có thể giúp định hướng hình thái thương tổn. Tuy nhiên, nhiều bệnh nhân không nhớ hoặc không thể mô tả chính xác cơ chế chấn thương. Tiếng kêu "rắc" vào thời điểm bị thương gợi ý một dấu hiệu của gãy xương (hoặc cũng có thể chỉ là tổn thương dây chằng hay gân). Gãy xương và các chấn thương dây chằng nghiêm trọng thường gây đau ngay lập tức; còn triệu chứng đau mà bắt đầu vài giờ đến vài ngày sau khi chấn thương thường là chấn thương nhẹ hơn. Đau quá mức thương tổn, đau tăng dần lên sau chấn thương vài giờ đầu tiên đến vài ngày gợi ý tới hội chứng khoang Hội chứng chèn ép khoang Hội chứng khoang là hiện tượng tăng áp lưc mô mềm trong khoang kín, dẫn đến thiếu máu mô. Triệu chứng sớm nhất là đau quá mức thương tổn. Chẩn đoán dựa vào lâm sàng, khẳng định bằng đo áp lực... đọc thêm hoặc thiếu máu ngoại vi cấp tính. Thăm khám thực thểThăm khám bao gồm
Nếu co thắt cơ và đau gây hạn chế khám thực thể (chủ yếu hạn chế stress test), có thể sử dụng thuốc giảm đau toàn thân hoặc gây tê tại chỗ. Hoặc có thể thăm khám bệnh nhân lại vài ngày sau khi bất động gãy xương, khi đó các cơ sẽ giảm co thắt. Một số dấu hiệu chính xác gợi ý gãy xương hay một chấn thương hệ cơ xương khác. Biến dạng gợi ý gãy xương, nhưng nó cũng có thể là một trật khớp hay bán trật (trật khớp không hoàn toàn). Sưng nề thường gặp trong gãy xương hoặc những tổn thương khác của hệ cơ xương, tuy nhiên triệu chứng này cần vài giờ để biểu hiện rõ. Nếu không có sưng nề xảy ra trong khoảng thời gian này, thường ít khi có gãy xương. Với một số loại gãy (ví dụ, gãy "oằn" ở trẻ em, gãy không di lệch), triệu chứng sưng nề có thể nhẹ hơn, nhưng rất hiếm khi không có. Đaugần như có trong tất cả các thương tổn hệ cơ xương, với nhiều bệnh nhân, sờ bất cứ chỗ nào xung quanh chỗ bị thương tổn đều gây đau. Tuy nhiên, đau tăng đột ngột tại một điểm cụ thể ( điểm đau khu trú) gợi ý có gãy xương. Một chỗ mất liên tục có thể sờ rõ trên xương gãy. Lạo xạo (một dấu hiệu đặc trưng khi sờ và / hoặc có thể nghe được- xảy ra khi ổ gãy di chuyển) là một dấu hiệu của gãy xương. Nếu có một vết thương gần chỗ gãy thì coi đó là gãy xương hở. Gãy xương hở có thể được phân loại bằng hệ thống Gustilo-Anderson:
Phân độ cao hơn sẽ có nguy cơ viêm tủy xương cao hơn; tuy nhiên thực tế độ tin cậy của hệ thống này không cao (thường chỉ khoảng 60%), các tổn thương cụ thể cần đánh giá thêm trong mổ. Việc tập trung đánh giá một số vùng khi thăm khám sẽ giúp hạn chế bỏ sót thương tổn (xem Bảng: Thăm khám một số loại gãy xương hay bị bỏ sót Thăm khám một số loại gãy xương hay bị bỏ sót Gãy xương là hiện tượng phá vỡ xương. Hầu hết các loại gãy xương cần một lực mạnh tác động lên xương bình thường. Ngoài gãy xương, còn có kèm theo các thương tổn phần mềm hệ cơ xương. Trật khớp... đọc thêm ). Nếu khám thực thể bình thường tại khớp mà bệnh nhân kêu đau, nguyên nhân có thể là do "đau phản chiếu" Ví dụ, bệnh nhân có trượt đĩa sụn xương đùi Chứng trượt đầu trên xương đùi (SCFE) Chứng trượt đầu trên xương đùi là sự di chuyển của cổ xương đùi lên trên và về phía trước so với đầu xương đùi. Chứng tượt đầu trên xương đùi (SCFE) thường xảy ra ở trẻ vị thành niên và hay... đọc thêm (hoặc ít gặp hơn như gãy xương háng Gãy xương hông Gãy xương hông có thể xảy ra ở chỏm, cổ xương đùi, tại hoặc dưới khu vực khối mấu chuyển. Những loại gãy này thường gặp ở người già, đặc biệt ở bệnh nhân có loãng xương, thường do ngã. Chẩn... đọc thêm ) có thể cảm thấy đau ở đầu gối. Chẩn đoán hình ảnhKhông phải tất cả các trường hợp nghi ngờ gãy xương đều cần chẩn đoán hình ảnh. Một số loại gãy rất nhỏ được điều trị tương tự như chấn thương phần mềm. Ví dụ, hầu hết các chấn thương ở ngón chân 2 đến 5 và hay một số chấn thương ở đầu ngón tay được điều trị triệu chứng đơn thuần dù có gãy hay không, do đó không cần chụp phim. Ở nhiều bệnh nhân bong gân cổ chân, khả năng tìm được đường gãy xương để khiến thay đổi hướng điều trị là rất thấp, do đó ít khi cần chụp phim X quang. Đối với chấn thương cổ chân, các tiêu chuẩn đã được thừa nhận để chụp X-quang (Luật Ottawa (Xem thêm Tổng quan tổn thương dây chằng và các chấn thương mô mềm khác.) Tổn thương dây chằng cổ chân rất phổ biển, thường gặp nhất là do lật bàn chân vào trong. Các dấu hiệu chung là đau,... đọc thêm ) có thể hạn chế giúp tia X không cần thiết cho bệnh nhân. Nếu cần chẩn đoán hình ảnh, chụp X quang thường quy nên được thực hiện trước. X-quang thường quy giúp nhìn thấy hình thái xương (và có thể là tràn dịch khớp thứ phát do chảy máu ở các loại gãy xương kín đáo) do đó rất hữu ích để chẩn đoán gãy xương. Chúng thường bao gồm ít nhất 2 tư thế chụp (thường là phim chụp trước-sau và phim nghiêng) Các tư thế khác (ví dụ, chéo) có thể được thực hiện khi
Với chụp nghiêng ngón tay, ngón cần chụp cần phải được tách riêng ra những ngón còn lại. Cộng hưởng từ hoặc là cắt lớp vi tính có thể được sử dụng nếu
Ví dụ, các dấu hiệu sau khi ngã gợi ý gãy xương vùng háng, MRI nên được tiến hành để phát hiện các gãy xương kín đáo. Một số thăm dò khác có thể được thực hiện để đánh giá các tổn thương kèm theo:
Mô tả kiểu gãyMô tả ổ gãy trên X quang bằng cách sử dụng các thuật ngữ như sau:
Các thuật ngữ về vị trí gãy bao gồm
Các loại đường gãy phổ biến
Mối liên hệ các mảnh vỡ.
Điều trị
Điều trị ban đầuCác tổn thương nghiêm trọng liên quan, nếu có, thì được xử lý trước. Sốc mất máu (Xem thêm Sepsis and Septic Shock.) Sốc là tình trạng suy giảm tưới máu cơ quan với kết quả là rối loạn chức năng tế bào và tử vong. Cơ chế có thể làm giảm khối lượng tuần hoàn, giảm cung lượng... đọc thêm cần được xử lí ngay. Tổn thương mạch được chỉ định phẫu thuật điều trị trừ khi gãy chỉ ảnh hưởng đến các mạch nhỏ và có các vòng tuần hoàn phụ giúp lưu thông máu tốt. Hội chứng khoang Hội chứng chèn ép khoang Hội chứng khoang là hiện tượng tăng áp lưc mô mềm trong khoang kín, dẫn đến thiếu máu mô. Triệu chứng sớm nhất là đau quá mức thương tổn. Chẩn đoán dựa vào lâm sàng, khẳng định bằng đo áp lực... đọc thêm cần được điều trị. Các tổn thương dây thần kinh nghiêm trọng cần được chỉ định mổ; còn đối với các trường hợp chấn thương chèn ép hay đụng dập, điều trị ban đầu thường là theo dõi thêm, các biện pháp hỗ trợ, và đôi khi là vật lý trị liệu. Gãy xương nghi ngờ gãy hở cần phải được che phủ băng gạc vô trùng, phòng ngừa uốn ván, kháng sinh phổ rộng (ví dụ, cephalosporin thế hệ thứ 2 phối hợp với một aminoglycosid), và phẫu thuật cắt lọc và tưới rửa sạch (giúp ngăn ngừa nhiễm trùng). Hầu hết các gãy xương vừa và nặng, đặc biệt là gãy mất vững, cần được cố định ngay bằng cách nẹp (không nên cố định bột tròn kín) để giảm đau và để ngăn ngừa tổn thương thứ phát đến phần mềm do các mảnh vỡ. Ở những bệnh nhân gãy xương dài, việc nẹp cố định có thể giúp ngăn ngừa biến chứng tắc mạch mỡ. Triệu chứng đau cần được điều trị càng sớm càng tốt, thông thường với các thuốc chứa opioid Thuốc giảm đau opioid Các thuốc giảm đau opioid và không opioid là những loại thuốc chính được sử dụng để điều trị đau. Có thể sử dụng thuốc chống trầm cảm, thuốc chống co giật và các thuốc tác động lên hệ thống... đọc thêm hoặc bằng tê thần kinh vùng. Nếu bệnh nhân chỉ có tổn thương gãy chi và loại trừ được hội chứng khoang; có thể gây tê thần kinh vùng để giảm đau, cách này có thể giúp giảm thiểu việc sử dụng opioid cũng như giảm đau nhiều hơn so với dùng opioid đơn thuần (1 Tham khảo Gãy xương là hiện tượng phá vỡ xương. Hầu hết các loại gãy xương cần một lực mạnh tác động lên xương bình thường. Ngoài gãy xương, còn có kèm theo các thương tổn phần mềm hệ cơ xương. Trật khớp... đọc thêm ). Sau khi tiến hành điều trị ban đầu, gãy xương cần được nắn chỉnh, bất động và và điều trị triệu chứng. Nắn chỉnhBiến dạng xoay xấu, gập góc hay di lệch nhiều phải được nắn chỉnh (đặt lại xương về giải phẫu), và thường cần tiến hành dưới tác dụng của gây tê hoặc gây mê. Ngoại trừ một số loại gãy ở trẻ em còn trong quá trình phát triển, theo thời gian biến dạng có thể dần dần khắc phục được. Nắn kín (bằng các thao tác kéo, không rạch da) nên được thực hiện nếu có thể. Nếu nắn kín thất bại, cần mổ mở nắn chính; khi đó cần phải gây mê hoặc gây tê. Việc nắn chỉnh ổ gãy thường cần được duy trì bằng bột, tuy nhiên một số loại gãy chỉ cần bất động bằng nẹp hoặc treo tay. Mổ mở nắn chỉnh ổ gãy cần được cố định bằng các phương tiện khác nhau, có thể sử dụng phương tiện cố định bên ngoài và / hoặc bên trong. Trong phẫu thuật mổ mở nắn chỉnh cố định xương bên trong (ORIF), các mảnh được đặt lại và giữa bằng cách sử dụng kết hợp các loại kim, nẹp, vít. Mổ mở nắn chỉnh cố định (ORIF) thường được chỉ định khi
PRICEPRICE (bảo vệ, nghỉ ngơi, chườm lạnh, băng ép và nâng cao chi) có thể hữu ích. Bảo vệ giúp ngăn ngừa các thương tổn thứ phát. Nó bao gồm việc hạn chế vận động phần thương tổn bằng cách sử dụng một nẹp hoặc bột, hoặc sử dụng nạng. Nghỉ ngơi có thể ngăn ngừa tổn thương thêm và giúp hồi phục nhanh hơn. Chườm lạnh và băng ép có thể giúp giảm thiểu sưng nề và đau. Đá lạnh được đóng trong túi nhựa hoặc bọc trong khăn được sử dụng trong 24 đến 48 giờ đầu tiên (chườm mỗi lần 15 đến 20 phút, càng nhiều lần càng tốt). Chấn thương có thể được băng ép thanh, băng thun, hoặc, đối với một số thương tích có thể gây ra sưng nề, băng gạc Jones. Gạc Jones có 4 lớp; lớp 1 (trong cùng) và 3 là bông mềm, và lớp 2 và 4 là băng chun. Nâng cao chi bị thương lên hơn tim trong 2 ngày đầu để không cản trở lượng máu về; vị trí như vậy cho phép dẫn lưu dịch theo trọng lực và giảm phù nề. Sau 48 giờ, việc sử dụng chườm ấm định kỳ (ví dụ, bằng tấm đệm ấm) trong 15 đến 20 phút có thể làm giảm đau và hồi phục nhanh chóng. Bất độngBất động giúp làm giảm đau và tạo điều kiện cho việc chữa lành thương tổn, ngăn ngừa thương tổn thứ phát và và giữ cho đầu gãy đúng trục. Các khớp trên và dưới của thương tổn cũng nên được bất động. Phần lớn các loại gãy được bất động vài tuần trong bột tròn kín. Một số loại gãy liền nhanh, gãy vững (ví dụ, gãy oằn xương cổ tay ở trẻ em) không cần bó bột, vận đông sớm cho kết quả tốt nhất. Bó bột thường được sử dụng cho các loại gãy xương bất động vài tuần. Cũng có khi sự sưng nề trong bột đủ nghiêm trọng để gây ra hội chứng khoang Hội chứng chèn ép khoang Hội chứng khoang là hiện tượng tăng áp lưc mô mềm trong khoang kín, dẫn đến thiếu máu mô. Triệu chứng sớm nhất là đau quá mức thương tổn. Chẩn đoán dựa vào lâm sàng, khẳng định bằng đo áp lực... đọc thêm . Nếu lâm sàng nghi ngờ bị sưng nề gây chèn ép dưới bột, bột (và tất cả bông đệm) được rạch dọc từ đầu đến cuối ở cả bên trong và bên ngoài (thành hai mảnh). Bệnh nhân sau bó bột nên được hướng dẫn bằng văn bản, bao gồm:
Chăm sóc vệ sinh thân thể là rất quan trọng. Nẹp (xem Hình: Điều trị bằng bất động khớp: Một số kỹ thuật thường được sử dụng. Điều trị bằng bất động khớp: Một số kỹ thuật thường được sử dụng. Gãy xương là hiện tượng phá vỡ xương. Hầu hết các loại gãy xương cần một lực mạnh tác động lên xương bình thường. Ngoài gãy xương, còn có kèm theo các thương tổn phần mềm hệ cơ xương. Trật khớp... đọc thêm ) có thể được sử dụng để hỗ trợ cố định một số loại gãy vững, bao gồm một số gãy xương nghi ngờ nhưng rõ trên phim, và một số loại gãy nhanh liền chỉ cần bất động trong vài ngày hoặc ít hơn. Nẹp không bó tròn hết chu vi như bột; do đó, nó cho phép bệnh nhân chườm đá và vận động nhiều hơn so với bó bột. Ngoài ra, nó không gây chèn ép trong một số trường hợp chi bị sưng nề, do vậy không gây ra hội chứng khoang. Một số loại gãy xương cần thiết phải bó bột có thể bất động tạm thời bằng nẹp trước cho đến khi hết sưng nề. Điều trị bằng bất động khớp: Một số kỹ thuật thường được sử dụng.
Treo tay giúp hỗ trợ một phần và hạn chế di động; nó có thể hữu ích đối với một số loại gẫy xương nhất định (ví dụ như gãy xương đòn ít di lệch, gãy đầu gần xương cánh tay), đặc biệt khuyến cáo trong những trường hợp mà việc cố định hoàn toàn là không nên (ví dụ như chấn thương vai, nếu hoàn toàn cố định có thể nhanh chóng dẫn đến viêm dính khớp (đông cứng khớp vai ). Băng vải cuốn hay băng dính y tế xung quanh có thể được sử dụng cùng với treo tay để ngăn cánh tay không quá bị vung ra ngoài, đặc biệt là vào ban đêm. Băng vải được quấn quanh lưng và lên phần bị thương. Băng vải cuốn xung quanh thỉnh thoảng được dùng hỗ trợ thêm cho treo tay để bất động trong trường hợp gãy đầu gần xương cánh tay loại 1 mảnh rời. Nghỉ ngơi tại giường Các tác động của việc nằm giường quá nhiều Một bệnh viện có thể cung cấp chăm sóc y tế cấp cứu, xét nghiệm chẩn đoán, điều trị tích cực, hoặc phẫu thuật, có thể hoặc không cần phải nhập viện. Người cao tuổi nằm viện nhiều hơn người trẻ... đọc thêm , đôi khi cần thiết cho gãy xương (như gãy cột sống hoặc xương chậu), tuy nhiên có thể gây ra một số vấn đề (ví dụ như huyết khối tĩnh mạch sâu, nhiễm khuẩn tiết niệu, teo cơ). Bất động khớp kéo dài (> 3 đến 4 tuần cho người trưởng thành trẻ) có thể gây ra cứng khớp, hạn chế vận động, và teo cơ. Những biến chứng này có thể phát triển rất nhanh chóng và gây tổn thương vĩnh viễn, đặc biệt ở người cao tuổi. Một số loại chấn thương liền nhanh được điều trị tốt nhất khi cho phép tập vận động tích cực lại trong vài ngày hoặc vài tuần đầu; sự vận động sớm như vậy có thể giảm thiểu hiện tượng cứng cơ và teo cơ, do đó làm tăng tốc tiền trình hồi phục lại chức năng. Các nhà trị liệu vật lý sẽ cho bệnh nhân lời khuyên về những gì họ có thể làm trong quá trình bất động để có thể duy trì càng nhiều chức năng càng tốt. Sau khi bất động, các nhà trị liệu vật lý có thể cho bệnh nhân các bài tập để cải thiện tầm vận động và sức mạnh của cơ, tăng cường và ổn định khớp bị thương, do đó giúp ngăn ngừa tái phát cũng như các suy yếu dài hạn. Một số kĩ thuật khácThaykhớp có thể cần thiết, thường là khi gãy xương gây hư hại nghiêm trọng đầu trên xương đùi hoặc xương cánh tay. Ghép xương có thể được thực hiện ngay thì đầu nếu khoảng cách giữa các đầu xương gãy quá lớn. Nó có thể được thực hiện sau này nếu xuất hiện chậm liền hoặc không liền. Tham khảo
Những vấn đề của người cao tuổiNgười cao tuổi dễ bị gãy xương vì những lý do sau:
Gãy xương liên quan đến tuổi già bao gồm gãy đầu xa xương quay, đầu gần cánh tay, xương chậu, đầu trên xương đùi và cột sống. Đối với người cao tuổi, mục tiêu điều trị là nhanh chóng quay trở lại các hoạt động của cuộc sống hàng ngày thay vì phục hồi hoàn hảo trục chi, chiều dài chi. Bởi vì việc bất động (bất động khớp hoặc nghỉ ngơi trên giường) gây nhiều nguy cơ, tác dụng phụ, chỉ định mổ mở nắn chỉnh cố định để điều trị gãy xương ngày càng gia tăng. Việc vận động sớm (nhờ mổ) và liệu pháp vật lý là cần thiết cho việc phục hồi chức năng. Các bệnh lí đi kèm (ví dụ, viêm, thoái hóa khớp) có thể ảnh hưởng đến quá trình hồi phục. Những điểm chính
|