Thang điểm đánh giá giấc ngủ pittsburgh năm 2024

Đặt vấn đề: rối loạn giấc ngủ ở bệnh nhân suy tim mạn tính là rất phổ biến, nó có thể ảnh hưởng không nhỏ tới sinh hoạt hàng ngày của bệnh nhân mà còn tác động lớn tới quá trình chăm sóc, điều trị bệnh, gây suy giảm sức khỏe nặng nề hơn. Mục đích nghiên cứu: nghiên cứu này thực hiện là để đánh giá chất lượng giấc ngủ, ảnh hưởng của chất lượng giấc ngủ tới bệnh nhân và các yếu tố dự báo của nó ở bệnh nhân suy tim. Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, được thực hiện trên cỡ mẫu 251 bệnh nhân bị suy tim mãn tính đến khám và điều trị nội trú tại Viện tim mạch Bạch Mai từ tháng 8/2021 đến tháng 9 năm 2022. Những bệnh nhân này đã hoàn thành một cuộc điều tra nhân khẩu học bằng câu hỏi trong bệnh án nghiên cứu và chất lượng giấc ngủ của họ được đo bằng chỉ số chất lượng giấc ngủ Pittsburgh (PSQI). Sử dụng phân tích phương sai một chiều ANOVA, kiểm định Chi-square, kiểm định Kruskal – Wallis và kiểm định hổi qui tuyến tính, kiểm định hồi qui logistic được sử dụng để phân tích bộ dữ liệu. Kết quả: 78,5% bệnh nhân (n = 197) cho biết chất lượng giấc ngủ kém (PSQI > 5). Dải điểm PSQI thu được trong nghiên cứu chạy từ 3-19 điểm, cho thấy tất cả bệnh nhân đều gặp ít nhất một vấn đề liên quan đến giấc ngủ. Ngoài ra, một mối quan hệ đáng kể đã được tìm thấy giữa điểm PSQI và tuổi của bệnh nhân (p <0,001), trình độ học vấn (p <0,001), tình trạng nghề nghiệp (p <0,038), số lần nhập viện (p <0,005), bệnh ngoài tim (p <0,001), sử dụng thuốc lợi tiểu và trái phân suất tống máu thất (p<0,001). Kết luận: Tỉ lệ bệnh nhân có chất lượng giấc ngủ kém rất cao cho thấy tính trầm trọng của rối loạn giấc ngủ ở bệnh nhân suy tim tại Việt Nam. Có nhiều yếu tố liên quan đến chất lượng giấc ngủ và rối loạn giấc ngủ mà các bác sĩ, điều dưỡng và cơ quan y tế cần có sự công nhận để cải tiến và quản lí hiệu quả.

PSQI, chất lượng giấc ngủ, suy tim

Chất lượng giấc ngủ là một cấu trúc lâm sàng quan trọng, những than phiền về chất lượng giấc ngủ khá phổ biến; điều tra dịch tễ học cho thấy 15-35% dân số trưởng thành phàn nàn về rối loạn chất lượng giấc ngủ thường xuyên, ví dụ như khó ngủ hoặc khó duy trì giấc ngủ (Karacan et al., 1976, 1983; Bixler et al., 1979; Lugaresi et al., 1983; Welstein và cộng sự, 1983; Mellinger và cộng sự, 1985); đồng thời, chất lượng giấc ngủ kém có thể là một triệu chứng quan trọng của rối loạn giấc ngủ và rối loạn y khoa (Kripke et al., 1979). Do vậy, thang đo Pittsburgh Sleep Quality Index (PSQI) đã được phát triển vào năm 1989. 2, Đối tượng:

PSQI đã được sử dụng ở những người khỏe mạnh ở nhiều độ tuổi khác nhau, những người mắc bệnh Parkinson, những người sống sót sau chấn thương, những người có vợ hoặc chồng đã mất và những bệnh nhân mắc bệnh hoặc hoảng loạn, rối loạn, trầm cảm hoặc ám ảnh xã hội

3, Mục đích của thang đo:

Đánh giá chủ quan về chất lượng và rối loạn giấc ngủ rất quan trọng đối với nhiều nhà nghiên cứu và bác sĩ lâm sàng vì chất lượng giấc ngủ giảm và có thể ảnh hưởng sâu sắc đến chất lượng cuộc sống và có thể liên quan đến bệnh về thể chất hoặc cảm xúc (Buysse DJ, Reynolds CF, Monk TH, Berman SR, Kupfer DJ ; 1989) (Hoch CC, Dew MA, Reynolds CF, et al ; 1994). Ngoài ra nó còn cung cấp một chỉ số dễ dàng sử dụng cho các bác sĩ lâm sàng và các nhà nghiên cứu để giải thích và cung cấp một đánh giá lâm sàng ngắn gọn và hữu về một loạt các rối loạn có thể ảnh hưởng đến chất lượng giấc ngủ.

4, Mô tả thang đo:

Thang đo PSQI được hoàn tại nhà và trả lại qua thư bưu chính; bao gồm 19 mục tạo ra điểm chất lượng giấc ngủ toàn cầu và 7 điểm thành phần sau:

● Chất lượng giấc ngủ chủ quan ● Độ trễ của giấc ngủ ● Thời gian ngủ ● Hiệu quả giấc ngủ ● Rối loạn giấc ngủ ● Sử dụng thuốc ngủ ● Rối loạn chức năng ban ngày trong tháng trước. Các mục PSQI yêu cầu nhiều câu trả lời khác nhau bao gồm ghi lại thời gian ngủ thông thường, thời gian thức bình thường, số giờ ngủ thực tế và số phút để ngủ; cũng như các câu hỏi kiểu Likert bắt buộc, bao gồm các lý do khiến bạn khó ngủ như không thể ngủ trong vòng 30 phút, cảm thấy quá nóng và đau,... các trả lời cho các mục này bao gồm: (a) không trong tháng vừa qua; (b) ít hơn một lần một tuần; (c) một hoặc hai lần một tuần; và (d) ba lần trở lên mỗi tuần. Bảng câu hỏi được thay đổi tùy theo nhóm người tham gia. Tất cả những người tham gia hoàn thành PSQI sẽ thực hiện Báo cáo kinh nghiệm về triệu chứng (SER) và Hồ sơ về trạng thái tâm trạng (POMS). SER là thang đo 20 mục đánh giá các triệu chứng thực thể. Người thực hiện được hỏi đánh giá mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng xuất hiện trong tuần trước bằng cách sử dụng thang điểm từ 1 (rất nhẹ) đến 7 (rất nghiêm trọng). Các triệu chứng trên SER liên quan đến giấc ngủ bao gồm cảm giác mệt mỏi, các vấn đề về giấc ngủ, sự yếu kém về giấc ngủ. ( JANET S. CARPENTER and MICHAEL A. ANDRYKOWSKI, 1997) POMS là thước đo 65 mục của trạng thái tâm trạng gần đây ( McNair PM, Lorr M, Droppelman LF. POMS manual, 2nd ed. San Diego, California, 1981). Tổng điểm rối loạn tâm trạng được tính toán với sáu thành phần: sự lo lắng căng thẳng; quán tính mỏi mệt; trầm cảm thất vọng; nhầm lẫn hoang mang; hoạt động mạnh mẽ; và giận dữ thù địch. Điểm cao hơn là biểu hiện của rối loạn tâm trạng lớn hơn và căng thẳng cao hơn.

5, Độ tin cậy và tính hợp lệ:

3. Mang lại hiệu quả thật sự nhờ độ tin cậy cao: PSQI được chứng minh là một công cụ

bổ trợ có giá trị cho công việc lâm sàng đối với chứng mất ngủ là một phương pháp hữu ích đầu tiên, dễ xử lý và tiết kiệm thời gian để đánh giá rối loạn giấc, từ đó cung cấp những thông tin hữu ích nhằm giúp kết nối sự hợp tác giữa bác sĩ lâm sàng và nhà nghiên cứu. Từ việc sử dụng số liệu thu thập từ lâm sàng cho công việc nghiên cứu sâu về nguyên nhân cũng như giải pháp cho vấn đề về các bệnh lý giấc ngủ và tính phổ biến lâu dài của nó, một biện pháp mới có thể được phát triển và hoạt động như một sàng lọc lâm sàng và phỏng vấn ban đầu bằng một thước đo trong tương lai.

7, Nhược điểm:

Mặc dù đã được chuẩn hóa nhưng bộ câu hỏi của thang đo rối loạn giấc ngủ PSQI vẫn có phần chủ quan. Bài báo cáo được thực hiện ở nhà có thể phản ánh thông tin không chính xác và thiếu sự khách quan nếu giả sử người thực hiện gặp khó khăn trong việc hiểu ý đúng của câu hỏi, không biết nên trả lời hoặc câu trả lời có thể thiếu tính chân thật hay không đủ thông tin. Bài kiểm tra còn thiếu câu hỏi về vấn đề mệt mỏi, thông tin về mức độ đau, thời gian sử dụng chất gây nghiện hay là các câu hỏi về so sánh cũng như các yếu tố về văn hóa chưa được chuẩn hóa đầy đủ và hạn chế không xác định được biến nhân quả.

8, Tài liệu tham khảo:

  1. Buysse DJ, Reynolds CF, Monk TH, Berman SR, Kupfer DJ. The Pittsburgh Sleep Quality Index: a new instrument for psychiatric practice and research. Psychiatry Res 1989;28:193–213.
  2. Hoch CC, Dew MA, Reynolds CF, et al. A longitudinal study of laboratory- and diary- based sleep measures in healthy ‘‘old old’’ and ‘‘young old’’ volunteers. Sleep 1994;17:489–496. 3 TA, David D, Kulick-Bell R, Hebding J, Nolan B. Sleep disturbance and its relationship to psychiatric morbidity after Hurricane Andrew. Am J Psychiatry 1995;152:1659–1663.

4.. Menza MA, Rosen RC. Sleep in Parkinson’s disease: the role of depression and anxiety. Psychosomatics 1995;36:262–266. 5 AA, Adler LA, Peselow E, Zornberg G, Rosenthal M. Trazodone for antidepressantassociated insomnia. Am J Psychiatry 1994;151:1069–1072. 6. Reynolds CF, Hoch CC, Buysse DJ, et al. Sleep after spousal bereavement: a study of recovery from stress. Biol Psychiatry 1993;34:791–797. 7. Stein MB, Kroft CD, Walker JR. Sleep impairment in patients with social phobia. Psychiatry Res 1993;49:251–256. 8. Andrykowski MA, Altmaier EM, Barnett RL, Otis ML, Gingrich R, Henslee-Downey PJ. Quality of life of adult survivors of allogeneic bone marrow transplantation: correlates and comparison with matched renal transplant recipients. Transplantation 1990;50:399–406. 9. Andrykowski MA, Greiner CB, Altmaier EM, et al. Quality of life following bone marrow transplantation: findings from a multicentre study. Br J Cancer 1995;71:1322– 1329.