Tốc độ dòng chảy của sông ở đồng bằng và miền núi có khác nhau không vì sao

Một số nhân tố ảnh hưởng tới tốc độ dòng chảy và chế độ nước sông

Câu 11: Bằng kiến thức đã học, hãy cho biết:

Show

a) Những biểu hiện về sự khác biệt giữa sông ngòi ở miền núi và sông ngòi ở miền đồng bằng? Tại sao lại có sự khác biệt đó?

b) Nó ảnh hưởng như thế nào tới sự phát triển kinh tế - xã hội của các vùng đó?

Lời giải

a) Những điểm khác biệt giữa sông ngòi ở miền núi và đồng bằng

* Sông ngòi ở miền núi

– Lòng sông hẹp, độ dốc lớn, nhiều thác ghềnh, nước chảy mạnh hơn.

– Nước sông lên và xuống rất nhanh hơn.

– Quá trình xâm thực diễn ra mạnh.

* Sông ngòi ở miền đồng bằng

– Lòng sông rộng, độ dốc nhỏ hơn, uốn khúc quanh co, nước chảy chậm hơn.

– Nước sông lên, xuống chậm hơn.

– Quá trình bồi tụ diễn ra mạnh.

* Giải thích

– Do đặc điểm địa hình: miền núi địa hình cao, dốc và mấp mô. Miền đồng bằng địa hình thấp và tương đối bằng phẳng.

– Do đất đá ở miền núi rắn chắc, khó thấm nước. Còn ở đồng bằng đất đá vụn bở, dễ thấp nước.

– Do chế độ mưa và nguồn nước cung cấp cho sông ngòi ở các miền địa hình đó khác nhau.

– Do chiều rộng, độ dốc của lòng sông và lớp phủ thực vật ở miền núi và miền đồng bằng khác nhau.

b) Ảnh hưởng của sông ngòi tới sự phát triển kinh tế – xã hội của miền đồng bằng và miền núi

* Thuận lợi

– Cung cấp nước cho sản xuất và sinh hoạt.

– Tạo điều kiện phát triển giao thông vận tải đường sông và nuôi trồng thủy sản ở đồng bằng.

– Sông ngòi miền núi có nguồn thủy năng dồi dào, thuận lợi để xây dựng các nhà máy thủy điện.

– Tưới tiêu nước và bồi đắp phù sa cho đồng bằng.

* Khó khăn

– Gây ra các hiện tượng lũ, sạt lở ở miền núi.

– Hiện tượng ngập lụt thường xảy ra ở miền đồng bằng.

Câu 80: Hãy cho biết khái niệm về tốc độ nước lũ, lượng lũ, mô đun đỉnh lũ?

Đăng ngày: 20-03-2010 | Lượt xem: 1324

Tốc độ nước lũ là tốc độ chảy của nước lũ trong sông, có đơn vị là m/s. Tốc độ nước lũ thường khác nhau giữa các sông, giữa các đoạn sông và giữa các trận lũ. Trên các sông suối vừa và nhỏ miền núi, có độ dốc lòng sông lớn, tốc độ nước lũ lớn nhất có thể đạt tới hơn 5m/s; nhưng ở sông lớn vùng đồng bằng, tốc độ nước lũ tương đối nhỏ, lớn nhất cũng chỉ khoảng 2-3 m/s.

Lượng lũ là tổng lượng nước của một trận lũ hoặc trong một khoảng thời gian nào đó của trận lũ. Lượng lũ thường được ký hiệu là W và có đơn vị là m3.

Mô đun đỉnh lũ là lượng nước lũ lớn nhất được sinh ra trên 1 km2 diện tích lưu vực sông trong một đơn vị thời gian (1 giây), thường có đơn vị là l/s.km2 hoặc m3/s.km2.

Ý kiến bạn đọc

Gửi

Tin tức liên quan:

Tốc độ dòng chảy của sông ở đồng bằng và miền núi có khác nhau không vì sao

Đài KTTV khu vực Tây Bắc truyền thông, nâng cao nhận thức cộng đồng về Khí tượng Thủy văn (01/10/2021) Thực hiện Công văn số 1116/TCKTTV-VP ngày 06/9/2021 của Tổng cục Khí tượng Thủy văn (KTTV) về việc tăng cường truyền thông, nâng cao nhận thức cộng đồng về KTTV. Đài đã triển khai thực hiện nhiệm vụ:

Tốc độ dòng chảy của sông ở đồng bằng và miền núi có khác nhau không vì sao

Câu 1: Bão, áp thấp nhiệt đới là gì ? (24/06/2010)

Tốc độ dòng chảy của sông ở đồng bằng và miền núi có khác nhau không vì sao

Câu 2: Cơ sở phân loại bão, áp thấp nhiệt đới ? (23/06/2010)

Tốc độ dòng chảy của sông ở đồng bằng và miền núi có khác nhau không vì sao

Câu 3: Bão được đặt tên như thế nào ? (19/06/2010) Bão có nhiều cách gọi khác nhau tùy thuộc vào khu vực phát sinh bão:

Tốc độ dòng chảy của sông ở đồng bằng và miền núi có khác nhau không vì sao

Câu 4: Trên khu vực Tây Bắc Thái Bình Dương (bao gồm cả biển Đông) bão được đặt tên như thế nào ? (18/06/2010) Các cơn bão trên khu vực Tây Bắc Thái Bình Dương (bao gồm cả biển Đông của Việt Nam) được đặt tên theo tên phụ nữ chính thức bắt đầu từ năm 1945, và đến năm 1979 thì bắt đầu sử dụng cả tên của nam giới.

Tốc độ dòng chảy của sông ở đồng bằng và miền núi có khác nhau không vì sao

Câu 5: Tại sao gió trong bão lại mạnh nhất ở vùng gần tâm? (17/06/2010)

Tốc độ dòng chảy của sông ở đồng bằng và miền núi có khác nhau không vì sao

Câu 6: Có phải tốc độ di chuyển của bão chính là tốc độ gió mà bão sinh ra không? Dựa vào tốc độ di chuyển của bão có thể nhận định được hướng di chuyển của bão không? (16/06/2010)

Tốc độ dòng chảy của sông ở đồng bằng và miền núi có khác nhau không vì sao

Câu 7: Tại sao gió trong bão lại chuyển động xoay tròn theo hướng ngược chiều kim đồng hồ? (14/06/2010)

Tốc độ dòng chảy của sông ở đồng bằng và miền núi có khác nhau không vì sao

Câu 8: Các điều kiện cần thiết để hình thành và phát triển của một cơn bão? (11/06/2010)

Tốc độ dòng chảy của sông ở đồng bằng và miền núi có khác nhau không vì sao

Câu 10: Trong thực tế khi nghe thông tin về một cơn bão, nhiều người cho rằng bão chỉ là một điểm và chỉ chú ý đến vị trí của cơn bão. Điều này có đúng không? (10/06/2010)

Tốc độ dòng chảy của sông ở đồng bằng và miền núi có khác nhau không vì sao

Câu 9: Có phải kích thước của bão càng lớn thì cường độ của bão càng mạnh? (10/06/2010)

Tốc độ dòng chảy của sông ở đồng bằng và miền núi có khác nhau không vì sao

Câu 11: Trong vùng gió mạnh xung quanh tâm bão, khu vực nào có gió mạnh hơn cả? (09/06/2010)

HỎI ĐÁP VỀ DỊA LÍ TỰ NHIÊN VIỆT NAM

Ngày đăng:10/12/2017 - 22:22

HỎI ĐÁP VỀ ĐỊA LÍ TỰ NHIÊN VIỆT NAM

Câu 1: Vị trí địa lí nước ta “nằm hoàn toàn trong vòng đai nhiệt đới của nửa cầu Bắc, thiên về phía chí tuyến hơn là phía xích đạo”, lại ở bờ đông bán đảo Đông Dương. Điều đó có ý ngiã như thế nào đối với sự hình thành các đặc điểm địa lí tự nhiên độc đóa của nước ta?

ĐÁP: Phần đất liền nước ta có toạ độ địa lí từ 8030’B đến 23022’B và từ 1020Đ đến 1090Đ. Do vị trí như vậy nên nước ta có những đặc điểm sau:

- Nước ta nằm hoàn toàn trong vòng đai nhiệt đới của nửa cầu Bắc, ở phía Đông Nam của châu Á, trong vùng gió mùa nhiệt đới điển hình, nên có khí hậu nóng, ẩm. Một năm có hai mùa rõ rệt: mùa mưa và mùa khô.

- Nước ta không bị hoang mạc và bán hoang mạc như một số nước có cùng vĩ độ ở Tây Nam Á và châu Phi.

- Nhờ nhiệt độ cao, độ ẩm lớn, lượng mưa dồi dào nên thực vật phát triển xanh tốt quanh năm. Đặc biệt vị trí đó lại là nơi hội tụ của các hệ thực vật Ấn – Miến từ tây sang và Mã Lai – Inđônexia từ phía nam tới.

- Bờ biển nước ta dài, có nhiều vũng, vịnh. Ngoài biển lại có nhiều đảo và quần đảo. Thềm lục địa chứa nhiều tài nguyên (khoáng sản, hải sản) có giá trị. Ảnh hưởng của biển vào sâu trong đất liền. Tuy nhiên, hàng năm cũng có nhiều cơn bão gây tác hại cho sản xuất và sinh hoạt.

Câu 2: “Diện tích phần đất liền nước ta thuộc loại trung bình so với nhiều nước khác trên thế giới, nhưng lãnh thổ toàn vẹn của nước ta thì rất rộng lớn”. Nói như vậy có gì mâu thuẩn không? Tại sao?

ĐÁP: Nói như vậy không mâu thuẫn, bởi vì lãnh thổ toàn vẹn của nước ta bao goầm cả phần đất liền, các đảo, quần đảo và vùng biển thuộc chủ quyền nước ta. Diện tích phần đất liền nước ta khoảng 330.363 km2. Nếu so với nhiều nước khác trên thế giới thì không lớn quá, nhưng cũng không nhỏ quá. Ngoài phần đất liền, nước ta còn có một vùng biển rộng gấp nhiều lần so với phần đất liền, với hang nghìn hòn đảo lớn nhỏ, nằm rải rác hoặc hợp thành những quần đảo trong Biển đông, như Hoàng Sa, Trường Sa v.v…Như vậy cả phần đất liền lẫn vùng biển và các đảo, quần đảo của nước ta hợp lại thì lãnh thổ toàn vẹn của nước CHXHCN Việt Nam không nhỏ.

Câu 3: Nước ta có bao nhiêu tỉnh và thành phố. Miền Bắc, miền Trung và miền Nam có những tỉnh và thành phố nào?

ĐÁP: Theo tài liệu chính thức năm 2009, nước ta có 58 tỉnh và 5 thành phố trực thuộc Trung ương.

- Miền Bắc có 23 tỉnh gồm: Hà Giang, Tuyên Quang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái, Sơn La, Điện Biên, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Bắc Giang, Hoà Bình, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Phú Thọ, Hà Nam, Quảng Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình và 2 thành phố trực thuộc trung ương là Hà Nội và Hải Phòng. Ngoài ra, có 19 thành phố thuộc tỉnh là: Việt trì (thuộc Phú Thọ) và Hạ Long (thuộc Quảng Ninh)…

- Miền Trung có 18 tỉnh gồm: Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình Thuận, Gia Lai, Kon Tum, Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm Đồng. Có 1 thành phố trực thuộc trung ương là Đà Nẵng, có 18 thành phố thuộc tỉnh là: Thanh Hoá (thuộc Thanh Hoá), Vinh (thuộc Nghệ An), Huế (thuộc Thừa Thiên - Huế), Quy Nhơn (thuộc Bình Định), Nha Trang (thuộc Khánh Hoà) và Đà Lạt (thuộc Lâm Đồng)…

- Miền Nam có 15 tỉnh gồm: Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu, Long An, Đồng Tháp, An Giang, Tiền Giang, Hậu Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, Sóc Trăng, Kiên Giang, Bạc Liêu và Cà Mau. Có 2 thành phố trực thuộc Trung ương là: Thành phố Hồ Chí Minh và Cần Thơ. Ngoài ra, còn có 11 thành phố thuộc tỉnh là: Vũng Tàu (thuộc Bà Rịa – Vũng Tàu), Biên Hoà (thuộc Đồng Nai), Mĩ Tho (thuộc Tiền Giang)…

Câu 4: Các đảo và quần đảo Côn Đảo, Phú Quốc, Hoàng Sa, Trường Sa thuộc các tỉnh nào?

ĐÁP: Côn đảo là một huyện thuộc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Phú Quốc là một huyện thuộc tỉnh Kiên Giang. Hoàng Sa là một huyện thuộc tỉnh Quảng Nam- Đà Nẵng, còn Trường Sa là một huyện thuộc tỉnh Khánh Hoà.

Câu 5: Ở nước ta, tỉnh nào có diện tích lớn nhất, nhỏ nhất?

ĐÁP: Theo số liệu, cho đến năm 2009:

1. Tỉnh có diện tích lớn nhất là Nghệ An (16490.7 km2). Tỉnh có diện tích nhỏ nhất là Bắc Ninh (822.7 km2).

2. Những tỉnh và thành phố có số dân đông nhất là: Thành phố Hồ Chí Minh (7396.5 nghìn người), Hà Nội (6561.9 nghìn người), Thanh Hoá (3406.8 nghìn người), Nghệ An (2917.4 nghìn người), Đồng Nai (2596.4 nghìn người), An Giang (2149.5 nghìn người). Những tỉnh và thành phố có mật độ dân số lớn nhất là: Thành phố Hồ Chí Minh (3530 người/km2), Thành phố Hà Nội (1962 người/km2), Hưng Yên (1226 người/km2), Hải Phòng (1221 người/km2).

Câu 6: Tại sao nói Biển Đông nước ta là một biển lớn và nửa kín?

ĐÁP: Biển Đông bao bọc nước ta ở phần phía đông và phía nam, chủ yếu là phía đông nên có tên gọi là Biển Đông (Việt Nam).

Đây là một biển lớn, đứng hàng thứ 2 về diện tích trong số các biển ven Thái Bình Dương. Biển rộng trung bình trên 1000 km, dài khoảng trên 3000 km, diện tích khoảng 3.447.000 km2.

Đặc điểm nổi bật của Biển Đông là tính chất biển nửa kín của nó, được bao bọc 4 phía bởi lục địa châu Á, các quần đảo Philipin, Malaixia và Inđônêxia, chỉ thông ra Thái Bình Dương và các biển lân cận bằng những eo biển hẹp. Ý nghĩa của tính chất biển nửa kín ở chỗ nó làm ảnh hưởng đến đặc điểm của các dòng biển, của thuỷ triều và cả của giới sinh vật (các đàn cá,…)

Câu 7: Những đặc điểm cơ bản nào chứng tỏ nước ta có khí hậu nhiệt đới gió mùa ẩm?

ĐÁP: Nằm gọn trong vùng nội chí tuyến nửa cầu Bắc từ 8030’B đến 23022’B, đồng thời lại nằm gọn trong vùng hoạt động của gió mùa Đông Nam Á, nước ta có khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa, với đặc điểm nổi bật là nóng ẩm và mưa nhiều theo mùa.

- Nhiệt độ trung bình cả năm trong toàn quốc trên 230C, mỗi năm có ít nhất 1200 giờ nắng, cán cân bức xạ quanh năm dương. Tổng lượng nhiệt hoạt động xê dịch từ 8000 đến 10.0000C.

- Lượng mưa trung bình hang năm bằng 1700 – 1800mm, có nơi vượt quá 3000mm (tuy nhiên cũng có nơi chỉ có trên 500mm). Lượng bốc hơi: 700 – 800mm. Nước ta nói chung thừa ẩm.

- Trong một năm có 2 mùa rõ rệt: mùa khô bắt đầu từ tháng 10 đến tháng 4 trùng hợp với mùa gió Đông Bắc thịnh hành và mùa mưa kéo dài từ tháng 5 đến tháng 11 trùng hợp với mùa có gió mùa từ các biển ấm thổi vào theo hướng đông nam và tây nam.

Câu 8: Trong lịch sử phát triển lãnh thổ Việt Nam có nói đến các mảnh nền cổ. Vậy nền cổ là gì? Và ở nước ta có những mảng nền cổ nào?

ĐÁP: Nền là một yếu tố cấu trúc cơ bản của vỏ Trái Đất. Nền cổ là một bộ phận của lục địa trước kia được hình thành cách đây hang triệu năm. Các loại đá cấu tạo nên nền cổ đã bị biến chất rất mạnh, trở nên rắn chắc và không bị tác động uốn nếp lại vào những thời kì tạo núi sau này. Các hoạt động địa chất mạnh cũng chỉ có thể làm cho các nền cổ bị nứt vỡ thành từng mảng, có bộ phận được nâng cao, có bộ phận bị sụt xuống. Các bộ phận được nâng cao thường trở thành các cao nguyên rộng lớn, còn các bộ phận sụt lún thường bị các lớp trầm tích dày phủ lên, có khi dày tới 5000 – 8000m. Các lớp trầm tích này có thể bị uốn nếp trong các chu kì tạo núi trẻ hơn hoặc bị các khối mắc ma xâm nhập hoặc phún xuất tạo tạo núi lửa.

Trên lãnh thổ Namcó các mảng nền cổ (còn gọi là các địa khối) tương đối lớn là: mảng nền cổ Vòm Sông Chảy ở phía Bắc và mảng nền cổ Kontum ở phíaNamNgoài ra, còn có những mảng nền cổ nhỏ hơn lộ ra như các khối Phanxipăng, Sông Mã, Puhuat, Rào Cỏ. Mảng nền cổ Kontum là bộ phận phía đông của nền cổ Inđôxini bao gồm cả vùng Hạ Lào, miền Đông Thái Lan và lãnh thổ Campuchia.

Câu 9: Trong lịch sử phát triển lãnh thổ, các núi non ở nước ta đã được hình thành trong những thời kì nào?

ĐÁP: Trong lịch sử phát triển của lớp vỏ Trái Đất nói chung, và của cả châu Á, các nhà địa chất học đã xác định được các thời kì xảy ra các vận động tạo núi lớn sau đây:

- Thời kì trước Đại Cổ Sinh cách đây hàng nghìn triệu năm đã có một vài lần xảy ra các vận động tạo núi.

- Trong Đại Cổ Sinh, cách đây từ 285 triệu năm đến 570 triệu năm đã có 2 thời kì vận động tạo núi lớn:

a) Vận động tạo núi Calêđôni cách đây trên 400 triệu năm.

b) Vận động tạo núi Hecxini cách đây khoảng 300 triệu năm.

- Trong Đại Trung Sinh cũng có 2 thời kì vận động tạo núi lớn:

a) Vận động tạo núi Inđôxini cách đây khoảng trên 200 triệu năm.

b) Vận động tạo núi Kimêri cách đây khoảng trên 150 triệu năm.

- Trong Đại Tân Sinh, vào kỉ Đệ Tam, cách đây từ 25 đến 67 triệu năm, có thời kì vận động tạo núi hết sức mãnh liệt. Đó là vận động tạo núi Himalaya – Anpi.

Các thời kì tạo núi lớn đó đều có ít nhiều ảnh hưởng đến sự hình thành địa hình trên lãnh thổ nước ta.

Trước hết, cách đây hang nghìn triệu năm, chắc chắn là trên lãnh thổ nước ta đã có nhiều núi xuất hiện. Những núi đó dần dần đã bị phá huỷ, trở thành các nền cổ mà một vài bộ phận còn sót lại cho đến ngày nay.

Trong vận động tạo núi Calêđôni ở đầu Đại Cổ Sinh, ở miền Bắc các khối nền cổ Vòm Sông Chảy, Phanxipăng và Sông Mã đã được nâng cao và mở rộng them. Ở phía Nam nền cổ Inđôxini cũng bị nứt vỡ mạnh và nhiều bộ phận đã bị sụt lún xuống sâu.

Vận động tạo núi Hecxini xảy ra tương đối yếu ở miền Bắc, chắc chăn đã hình thành nên nhiều dãy núi uốn nếp đá vôi, nhưng các dãy núi này về sau lại bị các vận động tạo núi trong Đại Trung Sinh phát triển tiếp hoặc cải tạo lại. Ở miền Nam vận động tạo núi Hecxini lại khá mạnh, phần lớn các núi non ở phía bắc Đà Nẵng và ở Nam Trung Bộ đều xuất hiện trong thời kì này. Ngoài ra, suốt từ Trường Sơn Bắc trở xuống phía nam đều có hiện tượng xâm nhập hoặc phún xuất măcma.

Trong các vận động tạo núi Trung Sinh, ở miền Bắc hình thành các dãy núi đá vôi dọc song Đà, chạy dài suốt từ Sơn La đến Ninh Bình và các dãy núi cánh cung ở Đông Bắc đều chụm về Tam Đảo. Nhiều hiện tượng xâm nhập và phún xuất măcma cũng đã xảy ra. Trong Đại Trung Sinh, hầu hết lãnh thổ Việt Namđã có chế độ lục địa. Cũng từ đây, tác động bào mòn địa hình của các ngoại lực đã kéo dài khoảng 50 triệu năm, làm cho bề mặt lãnh thổ nước ta bị san bằng và núi non thấp đi rõ rệt.

Trong Đại Tân Sinh, do ảnh hưởng của vận động tạo núi Himalaya xảy ra với nhiều đợt cách nhau, nên địa hình nước ta được trẻ hoá lại. Ở phía bắc, lãnh thổ nước ta đã được cấu tạo vững chắc rtừ cuối Đại Trung Sinh và gắn liền vào khối Hoa Nam, nên ảnh hưởng của vận động tạo núi Himalaya chỉ gây nên các nếp uốn ngầm, nâng cao ở nơi này, làm sụt lún, đứt gãy ở những nơi khác. Do vận động diễn ra thành nhiều đợt có thời gian, cách nhau khá xa, nên địa hình cũng được nâng lên thành nhiều bậc có độ cao khác nhau.

Một ảnh hưởng quan trong nữa của vận động Himalaya là hoạt động mạnh mẽ của macma đã tạo nên những khu vực ba dan rải rác (như ở Điện Biên, Thanh Hoá, Phủ Quỳ, Vĩnh Linh…). Đặc biệt, hiện tượng phún xuất xảy ra rất mạnh ở phía nam, đá ba dan trào ra đã phủ những diện tích rộng trnê các cao nguyên nam Trung Bộ và miền Đông Nam Bộ.

Câu 9: Địa máng là gì? Hoạt động của địa máng như thế nào?

ĐÁP: Cũng giống như nền, địa máng là một yếu tố cấu trúc của vỏ Trái Đất. Đó là những bộ phận trũng của vỏ Trái Đất bị nước biển phủ ngập. Trải qua một thời gian rất dài, trong địa máng có trầm tích lắng đọng (chiều dày có thể tới 10 – 15 km). Tiếp sau thời kì lắng đọng trầm tích là thời kì hoạt động của địa máng. Các lớp trầm tích được uốn nếp và nâng lên trong các vận động tạo núi. Ở vị trí địa máng bị nước biển phủ ngập trước kia, nay có các dãy núi nổi lên. Độ cao của núi tuỳ thuộc vào cường độ nâng lên mạnh hay yếu. Như vậy có thể coi địa máng là nơi sinh ra các dãy núi uốn nếp, còn vật liệu trầm tích trong địa máng là nguyên liệu hình thành các loại đá cấu tạo nên các dãy núi.

Trong quá trình phát triển lâu dài của một lãnh thổ (qua các thời đại địa chất), sự kế tiếp của các giai đoạn: lúc là địa máng, lúc trở thành nền, rồi lại địa máng…thường xảy ra. Đó là các giai đoạn có chế độ: biển, rồi lục địa, rồi lại biển,…những thời kì biển xuất hiện thường được gọi là thời kì biển tiến, còn các thời kì lục địa xuất hiện là thời kì biển thoái. Ở nước ta, các địa máng cũng đã được hình thành và tồn tại trước khi có các vận động tạo núi xảy ra.

Câu 10: Hiện tượng núi non, sông ngòi của nước ta trẻ lại được biểu hiện như thế nào?

ĐÁP: Hiện tượng núi non, song ngòi của nước ta được trẻ lại biểu hiện ở chỗ: hình dạng của núi trở nên sắc sảo, độ cao tăng them, các song ngòi có độ dốc lớn hơn, nước chảy xiết hơn…

Câu 11: Tại sao các dãy núi ở nước ta lại có hướng Tây Bắc – Đông Nam và hướng vòng cung?

ĐÁP: Các dãy núi của nước ta ở miền Tây Bắc và Bắc Trung Bộ có hướng Tây Bắc – Đông Nam rõ rệt là vì các dãy núi này đã được hình thành trong đầu mút của địa máng cổ kéo dài từ phía Himalaya tới theo hướng Tây Bắc – Đông Nam .

Các núi có hướng vòng cung chủ yếu là được hình thành ở rìa phía đông của các mảng nền cổ, cho nên hình dạng của các mảng nền này cũng có tác dụng định hướng cho các nếp uốn hình thành nên chúng.

Câu 12: Trong việc tạo nên địa hình, nội lực và ngoại lực mâu thuẩn nhưng thống nhất với nhau. Hiểu điều đó như thế nào cho đúng bản chất?

ĐÁP: Nội lực là những lực có nguồn gốc từ sâu trong lòng Trái Đất, có vai trò chủ yếu là kiến tạo các đơn vị cấu trúc ở trên bề mặt Trái Đất như nền, các mạch nùi uốn nếp, đoạn tầng, núi lửa v.v…

Ngoài lực là những lực tác động trên bề mặt Trái Đất, còn gọi là lực xâm thực hay tác nhân xâm thực, ví dụ sức gió, sức nước, nhiệt Mặt Trời, sóng biển v.v…Về bản chất, đây là hai lực trái ngược nhau và mâu thuẫn với nhau, vì một bên thì “xây”, còn một bên thì “phá”, nhưng chúng kết hợp với nhau một cách chặt chẽ trong việc tạo nên các dạng địa hình hiện nay trên bề mặt Trái Đất. Nội lực vừa tạo nên các đơn vị cấu trúc thì đồng thời ngoại lực đã làm thay đổi hình dạng. Ví dụ khối núi Ba Vì, nguyên là những lớp đá trầm tích được uốn lên thành một nếp, rồi các tác nhân xâm thực xói mòn những nơi mềm làm cho những nơi rắn nhô lên thành ba ngọn, hay “va vì” núi.

Những địa hình ta trông thấy trên mặt các lục địa đều hình thành như thế, do tác động của hai lực: nội lực “xây dựng” và ngoại lực “xâm thực”. Đó cũng chính là quy luật chung của sự hình thành địa hình.

Câu 13: Hình thái các đồng bằng Bắc Bộ, Nam Bộ và đồng bằng duyên hải miền Trung có liên quan tới lịch sử phát triển của chúng như thế nào?

ĐÁP: 1. Đồng bằng Bắc Bộ là đồng bằng châu thổ, rộng 16000km2, được bồi đắp bởi phù sa của các hệ thống sông Thái Bình và sông Hồng. Là một châu thổ nên đồng bằng này có hình một tam giác đỉnh ở Việt Trì và thấp dần từ tây bắc xuống đông nam, với độ cao giảm dần từ 10 – 15m xuống đến độ cao sát mặt biển. Điểm nổi bật của đồng bằng này là có các ô trũng, được ngăn cách bởi hệ thống đê nhân tạo làm cho quá trình bồi đắp chưa hoàn thành, nhiều nơi còn rất trũng. Ra đến biển là dãy đất cồn tạo nên do tác động của sóng gió. Cồn cát tập trung nhiều nhất ở quãng giữa sông Trà Lí và sông Hồng. Do bị giới hạn bởi hệ thống đê, nên phù sa sông Hồng được mang ra cửa sông là cho diện tích đồng bằng càng mở rộng về phía biển, tốc độ khoảng 80m/năm.

2. Đồng bằng Nam Bộ là danh từ gọi chung 2 khu vực Đông Nam Bộ và châu thổ Cửu Long mà ranh giới chạy ngang qua thành phố Hồ Chí Minh.

- Khu vực Đông Nam Bộ xưa là một đồng bằng do phù sa sông bồi đắp lên trên đá gốc sa diệp thạch Trung sinh đại của sụt võng Nam Bộ. Trong kỉ Đệ tứ, khu vực phía đông của đồng bằng lại bị lôi cuốn vào vận động nâng lên của khu vực núi cực Nam Trung Bộ lên tới độ cao 100m (độ cao của các quả đồi thấp ven suốt dải đồng bằng duyên hải Việt Nam), trong khi đó phần còn lại bị sụt sâu xuống hình thành một vịnh biển, trong đó nổi lên một số đảo nhỏ. Đồng thời các hoạt động phun trào ba dan xảy ra, dung nham ba dan phủ lên trên lớp phù sa cổ.

Châu thổ sông Cửu Long có một lịch sử rất trẻ. Cách đây 4500 năm biển vẫn lấn vào tận Đồng Tháp Mười và châu thổ sông Cửu Long vẫn bị ngập nước tới 4m. Khoảng 2000 năm sau, mặc dù khối lượng phù sa khổng lồ của sông Cửu Long bồi đắp rất nhanh, nhưng độ cao trung bình của châu thổ vẫn chỉ khoảng 2m trên mực nước biển. Trong khi đó cửa triều ở vùng cửa sông dâng cao tới 3 – 4m. Vì thế mà đỉnh của châu thổ tính theo phạm vi ảnh hưởng của thuỷ triều lên đến tận PhnômPênh, cách biển 300km. Hiện nay, châu thổ sông Cửu Long vẫn tiếp tục mở rộng, nhưng do ảnh hưởng của hải lưu mà quá trình đó chỉ phát triển mạnh về phía tây nam (mũi Cà Mau) nhânh tới 60 – 80m/năm. Do lịch sử phát triển của châu thổ như vậy mà đất mặn, đất phèn, đất lầy chiếm một tỉ lệ diện tích đáng kể. Nước mặn có thể xâm nhập tới 1/3 diện tích châu rhổ.

Châu thổ sông Cửu Long hiện nay là một đồng bằng lớn, diện tích tới 40000km2, thấp và rất bằng phẳng, độ dốc bình quân 1m/km. Sông không có đê nên hàng năm vào mùa lũ, nước sông vẫn tràn bờ và làm ngập đến trên 1 triệu ha đất đai. Địa hình châu thổ cao thấp không đều. Cao là các gờ đất ven sông do phù sa bồi, có nhiều ở phía An Giang. Hai nơi trũng úng là Đồng Tháp Mười và Hà Tiên.

3. Đồng bằng duyên hải miền Trung là dải đồng bằng ven biển bị chia cắt thành từng khúc bởi các nhánh núi ăn lan ra sát biển, tạo thành các đồng bằng nhỏ hẹp. Từ bắc vào nam có các đồng bằng Nghệ An (1750km2), Hà Tĩnh (1660km2), Quảng Bình (640km2), Quảng Trị (610km2), Thừa Thiên (900km2), Quảng Nam (1450km2), Quảng Ngãi (1200km2), Bình Định (1700km2), Phú Yên (820km2), Khánh Hoà (400km2), Phan Rang (220km2) Và Phan Thiết (310km2).

Đặc điểm chung của các đồng bằng này là có độ dốc nghiêng từ tây sang đông. Đồng bằng rất hẹp ngang, đất phần lớn xấu.

Đây là loại đồng bằng mài mòn – bồi tụ. Lịch sử phát triển của chúng có liên quan mật thiết với sự bào mòn chân núi do biển, sau đó được các vật liệu của sông và biển bồi tụ thành.

Câu 14: Địa hình Kacxtơ ở Việt Nam có nhiều nét độc đáo khác với nhiều nơi trên thế giới. Vậy những nét độc đáo đó là gì? Ở nước ta có những kiểu và miền Kacxtơ nào đáng chú ý?

ĐÁP:

Từ “ Kacxtơ” vốn là một danh từ riêng, chỉ tên của một cao nguyên đá vôi ở dãy núi Anpơ Đinaric (Nam Tư cũ). Trong các từ điển hiện nay Kaxctơ được định nghĩa là quá trính tác động về mặt hóa học và một phần về mặt cơ học của nước ngầm vào các loại đá dễ hòa tan như đá vôi

Diện tịch Kaxctơ ở nước ta rộng 50.000 km2, chiếm 1/6 diện tích đất nước. Các miền Kaxctơ nước ta nằm trong phạm vi Kaxctơ nhiệt đới Đông Nam Á là nơi diện tích Kaxctơ rộng lớn nhất thế giới.

Do điều kiện nhiệt đới ẩm, nên các quá trình phong hóa vật lý, hóa học, sinh học diễn ra mạnh mẽ, tạo nên nhiều dạng Kaxctơ biểu hiện tính chất độc đáo của địa hình nước ta là địa hình Kaxctơ già. Có 2 dạng cơ bản:

1. Dạng do quá trình gặm mòn là chủ yếu tạo nên: các hố hút nước, giếng Kaxctơ, lũng Kaxctơ.

2. Dạng do hoạt động băng tụ chủ yếu tạo nên: các thạch nhũ trong hang động (vú đá, măng đá, rèm đá, cột đá…).

Ở nước ta, nếu phân theo hướng hình thái phát sinh thì có 4 kiểu Kaxctơ chủ yếu:

+ Kaxctơ trụi : Kaxctơ lộ trực tiếp ra bề mặt đất.

+ Kaxctơ phủ : Kaxctơ trên bề mặt có phủ một lớp vật liều không hòa tan.

+ Kaxctơ bị chôn vùi : quá trình Kaxctơ đã ngừng hoạt động, trên bề mặt đá Kaxctơ vẫn còn tồn tại các dạng địa hình Kaxctơ cổ sót lại.

+ Kaxctơ cổ: Kaxctơ được hình thành trong điều kiện địa lí khác với điều kiện địa lý hiện nay và chưa bị phá hủy do các quá trình ngoại lực.

Các miền Kaxctơ ở nước ta gồm có: miền Kaxctơ ở vùng trũng đông bắc (ở đây có các vùng Kaxctơ Hạ Long đẹp và nổi tiếng và Kaxctơ Bắc Sơn có nhiều hang động lớn vào bậc nhất nước ta), miền Kaxctơ khối nâng Việt Bắc (có hồ Ba Bể), miền Kaxctơ ở vùng trũng sông Đà (vùng Kaxctơ Nho Quan ở Ninh Bình được coi như là một vịnh Hạ Long trên cạn); miền Kaxctơ từ khối nâng sông Mã đến vùng trũng Cửu Long (có động Phong Nha – một hang Kaxctơ trẻ - một kì quan ở Quảng Bình).

Câu 15: Sách giáo khoa Địa lí 8 có nói: Vị trí nước ta đã làm cho khí hậu có những nét độc đáo. Vậy giải thích như thế nào?

Đáp: Vị trí nước ta có những đặc điểm sau đây nên đãi làm cho khí hậu có những nét độc đáo:

- Nước ta nằm hoàn toàn trong vòng đai nhiệt đới.

- Nước ta nằm ở trung tâm khu vực gió mùa Đông Nam Á.

- Nước ta có lãnh thổ hẹp từ tây sang động và bài tới 15o vĩ độ từ bắc xuống nam.

- Nước ta nằm trên một bán đảo, tận cùng của lục địa Âu – Á rộng nhất thế giới.

- Nuớc ta giáp Thái Bình Dương ở phía đông và phía nam, chịu ảnh hưởng thường xuyên của các trận bão nhiệt đới, sinh ra trong Thái Bình Dương.

Câu 15: Tại sao nằm trong vòng đai nhiệt đới mà khác với nhiều lãnh thổ khác, nước ta có một mùa đông giá rét. Điều đó có gì trái với quy luật không?

ĐÁP: Nằm trong vòng đại nhiệt đới của nửa cầu Bắc, nước ta quanh năm nhận dược một lượng nhiệt dồi dào, nhiệt độ trung bình năm trên 23oC.Thế nhưng, nước ta lại nằm gọn trong khu vực gió mùa châu Á, quanh năm chịu tác động của khối khí chuyển động theo mùa. Về mùa đông, từ áp cao Xibia rộng lớn, gió thổi xuống theo hướng đông bắc – tây nam mang theo không khí lạnh đến nước ta, gây ra một mùa đông rét. Ở Hà Nội có 3 tháng nhiệt độ trung bình xuống dưới 18oC. Chính vị trí địa lí góp phần làm cho khí hậu nước ta có đặc tính nói trên. Điều đó không có gì trái với quy luật.

Câu 16: Trong sách giáo khoa Địa lí có nêu: “Tổng số nhiệt độ trên 100C trong năm lên tới 80000C”. Điều đó có ý nghĩa gì? Tại sao lại trên 100C?

ĐÁP: Khi nói đặc điểm khí hậu của một quốc gia, người ta thường nói tổng số nhiệt độ trên 10oC là vì: về mặt nông nghiệp, mỗi loại cây trồng trong quá trình sinh trưởng đòi hỏi phải được cung cấp một lượng nhiệt nhất định. Nếu không đạt được lượng nhiệt đó thì hoặc là cây không sống được, hoặc là năng suất sẽ giảm. Lượng nhiệt đó được tính bằng tổng số nhiệt trên 10oC. Nhiệt độ 10oC là nhiệt độ tối thiểu để cây trồng có thể sống được. Tổng số nhiệt độ trên 10oC trong năm càng lớn thì điều đó càng chứng tỏ khả năng thuận lợi cho sự phát triển và cho năng suất cao của các loại cây trồng, không phải một vụ mà nhiều vụ trong năm.

Câu 17: Tính chất phức tạp của khí hậu Việt Nam được thể hiện như thế nào?

ĐÁP: Tính chất phức tạp bắt nguồn từ những biến động trái quy luật của khí hậu. Đó là sự phân hóa của khí hậu theo mùa khác nhau giữa các vùng lãnh thổ (Bắc,Trung, Nam ). Đó là những biến động thất thường của khí hậu trong năm hay từ năm này sang năm khác (hạn hán, úng lụt, sớm, muộn, dài, ngắn, đậm, nhạt….). Đó là những biệt lệ khí hậu như mùa đông lạnh có mưa phùn ở Bắc Bộ. Đó là các hiện tượng tiêu cực gay gắt của khí hậu như bão, gió phơn Tây Nam .

Chính ở vào vị trí có sự đắp đổi luân phiên của các khối khí trên một lãnh thổ có hình dạng kéo dài trên gần 15o vĩmà tính chất phức tạp của khí hậu được tăng cường.

Câu 18: Hoạt động của bão ở nước ta như thế nào? Tại sao ở nước ta thời gian hoạt động của bão chậm dần từ Bắc vào Nam ?

ĐÁP: Bão được hình thành trên dải hội tụ nhiệt đới. Đó là một vùng áp thấp gần tròn với đường kính khoảng 200-300 km. Trong vùng bão, gió thổi xoáy rất mạnh gây nên dòng thăng mạnh mẽ, hình thành mây và mưa dữ dội trong một phạm vi rộng lớn. Đặc biết tại vùng trung tâm, gọi là mắt bão có gió yếu hay lặng gió và trời quang mây tạnh

Bão đổ bộ vào Việt Nam thường xuất phát từ tây Thái Bình Dương (10o – 20oB và 130o - 145oĐ) hoặc ngay ở Biển Đông (7o - 20oB và 112o – 121oKĐ) vào thời kì mà nhiệt độ nước biển nóng trên 260 – 270C. Bão phát sinh trên dải hội tụ nhiệt đới (nội chí tuyến) và di chuyển từ đông sang tây. Mùa bão trên toàn quốc là từ tháng 7 đến tháng 11, cực đại vào tháng 9, gồm 85% tổng số bão. Tuy vậy cũng có những cơn bão đến sớm hay muộn hơn. Mùa bão và tần suất bão không đồng nhất từ bắc chí nam. Khu vực bị đe doạ nhiều nhất là từ Móng Cái đến mũi Ba Làng An. Ở miền Nam , bão ít hơn, nhiều năm hoàn toàn không có bão. Mùa bão có xu thế chậm dần từ bắc xuống nam phù hợp với sự di chuyển của dải hội tụ nhiệt đới xuống các vĩ độ thấp vào tháng 10, 11.

Câu 19: Bản chất của gió phơn Tây Nam khô nóng và hoạt động của loại gió này ở nước ta như thế nào?

ĐÁP: Gió phơn Tây Nam (còn gọi là gió Lào) là loại gió thổi vào nước ta từ tháng 4 – 7 từ hướng tây nam tới, thịnh hành trong tháng 5- 6. Phạm vi hoạt động mạnh nhất là ở miền trung.

Nguồn gốc của gió là sự di chuyển của khối không khí nhiệt đới vịnh Bengan: nóng ẩm. Bản chất của gió này ban đầu là mang theo nhiều hơi nước ẩm ướt. Khi vào nước ta đã vượt qua dãy Trường Sơn. Sau khi trút mưa ở sườn tây, vượt qua đỉnh, trườn xuống theo sườn đông thì nhiệt độ tăng lên (10/100m), độ ẩm giảm mạnh. Gió thổi đến đâu gây ra thời tiết khô nóng (thậm chí cực kì khô nóng) đến đó. Lúc đó gọi là thời tiết gió Lào, trời quang mây, oi bức, không mưa, nhiệt độ cao, có lúc đạt tới 39 – 400C, độ ẩm tương đối xuống đến 70 – 50%, thấp nhất có thể dưới 30%.

Câu 20: Tại sao nói: “Sông ngòi là hàm số của khí hậu trên một nền cảnh quan nhất định”.

ĐÁP: Trong số các nhân tố địa lí tự nhiên có tác động tới chế độ nước sông thì nhân tố khí hậu có tác dụng khá quyết định. Trong thực tế, điều đó được biểu hiện rất rõ: những nơi có lượng nước rơi lớn, dòng chảy sẽ phong phú, ngược lại, những nơi có lượng nước rơi nhỏ, dòng nước sẽ nghèo nàn. Chế độ nước rơi điều hoà thì thuỷ chế sông điều hoà. Khi mưa rất lớn thì nước sông lớn. Ở nước ta 2 mùa khí hậu trùng với hai mùa nước sông trong năm. Về mùa mưa nước sông dâng cao, về mùa khô dòng nước cạn kiệt, làm sông bé lại. Tương quan đó có thể biểu diễn bằng một hàm số như đã nói.

Câu 21: Tại sao cũng trong khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa mà hệ thống sông Hồng hay gây ra lũ lụt, có chế độ nước thất thường, còn hệ thống sông Cửu Long lại điều hòa hơn.

ĐÁP: Hệ thống sông Hồng gồm có hai sông lớn là sông Hồng và sông Đà đều bắt nguồn từ Trung Quốc. Khi chảy vào nước ta, phần lớn chiều dài các sông đều chảy qua vùng núi Tây Bắc, có núi non hiểm trở, độ dốc lớn, thảm thực vật đã bị tàn phá nhiều. Mặt khác, do lưu vực của hệ thống sông khá rộng, lượng nước cung cấp rất lớn về mùa mưa (60% lượng nước là của sông Đà). Nước ở phần thượng lưu được tập trung khá nhanh, dồn một lượng nước lớn về hạ lưu làm cho nước sông hay dâng cao đột ngột, nhiều lúc lên đến mức báo động số 3.

Sông Cửu Long bắt nguồn ở Tây Tạng trên độ cao 5000m. Đây là một trong những con sông lớn của thế giới, chảy qua 5 nước với tên gọi là Mê Công. Chiều dài sông tổng cộng lên tới 4500 km, đoạn hạ lưu chảy vào nước ta gọi là Cửu Long dài 220 km. Tổng lượng nước của sông rất lớn, gấp 5 lần sông Hồng, nhưng lòng sông lại rộng, sông đổ ra biển bằng 9 cửa, nên lượng nước thoát nhanh. Đặc biệt đoạn này chảy qua Phnôm Pênh (Campuchia) sông Mê Công được nối với Biển Hồ bằng sông Tônlêsáp. Biển Hồ có tác dụng rất lớn trong việc điều tiết chế độ nước sông, đặc biệt là phần từ đó chảy ra biển qua Việt Nam (tức là sông Cửu Long). Mùa nước lớn, Biển Hồ nhận nước vào làm giảm mực nước sông. Về mùa khô, nước lại từ Biển Hồ theo dòng Tônlêsáp chảy vào Cửu Long.

22: Thế nào gọi là “đất ngoài đê” và “đất trong đê”.

ĐÁP: Đây là cách nói thông thường của nhân dân vùng đồng bằng Bắc Bộ, nơi có hệ thống đê rất quy mô và từ lâu đời, nhằm chỉ đơn thuần vị trí của đất so với chỗ cư trú của con người.

Ở hai bên bờ các sông Hồng, sông Đáy, sông Đuống, sông Thái Bình…có hệ thống đê ngăn lũ. Về mùa khô, mực nước hạ thấp, phần bãi bồi và thềm sông lộ ra, nhân dân sử dụng đất đó để canh tác, trồng cc1 loại rau màu vụ đông. Còn về mùa mưa, nước sông dâng cao, vùng đó ngập nước. Gọi là đất trong đê và đất ngoài đê là nhằm phân biệt hai loại đất: được bảo vệ ở bên trong và không được đê bảo vệ ở bên ngoài.

23: Đất phèn là đất gì? Đặc tính của nó ra sao?

ĐÁP: Đất phèn còn gọi là đất chua mặn là loại đất được hình thành ở các vùng châu thổ trong quá trình lấn dần ra biển. Đặc điểm của loại đất này là vừa chua vừa mặn. độ chua khá lớn (pH: 3 – 4,5) chủ yếu do phèn nhôm (sunphát nhôm) và phèn sắt (sunphát sắt) sinh ra. Còn mặn là do các clorua như NaCL.

Đất phèn chủ yếu được hình thành ở những vùng biển trước đây có rừng ngập mặn phát triển. Xác các cây đước, sú, vẹt, tràm.v.v…có chứa một lượng lưu huỳnh rất lớn. Khi bị vùi xuống sâu và phân huỷ ở môi trường yếm khí (ngập nước), lưu huỳnh tạo thành các sunphua. Khi gặp không khí, chúng lại bị ôxi hoá thành axit sunphuric và các sunphát nhôm, sắt…Đất phèn có độ độc hại lớn đối với cây trồng, vì vậy để sử dụng được loại đất này cần phải có các biện pháp cải tạo. Trước hết phải có các công trình thuỷ lợi đưa nước ngọt về để: “thau chua rửa mặn”, làm giảm nồng độ phèn và muối trong đất, sau đó phải bón vôi để giảm độ chua rồi mới trồng dần các loại cây có khả năng chịu phèn cao như: sắn, mía, dứa v.v…

Ở nước ta, đất phèn phân bố ở nhiều nơi, chủ yếu là ở đồng bằng sông Cửu Long. Ở đồng bằng Bắc Bộ đất phèn tập trung ở dải đất ven biển từ hải phòng đến Quảng Ninh.

Câu 24: Những đặc điểm của đất feralit. Trong các loại đất feralit ở nước ta, đất nào có giá trị kinh tế cao nhất, đặc điểm của nó và sự phân bố?

ĐÁP: Đất feralít bao gồm nhiều loại khác nhau: feralít vàng đỏ miền rừng, feralít đỏ sẫm, feralít nâu xám, feralít mùn trên núi cao…Đặc tính chung của chúng là có lượng khoáng nguyên sinh thấp, lượng các hiđrôxit sắt, nhôm, titan cao, cấu tượng bền, độ mùn đáng kể. Trong số đó, loại đất tốt nhất là feralít đỏ sẫm do các sản phẩm phong hoá của đá ba dan và đá vôi tạo thành.

Đất hình thành trên đá ba dan ở nước ta có khoảng 2 triệu ha, chủ yếu phân bố ở Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, Bắc Quảng Trị, Phủ Quỳ. Đặc điểm của loại đất này là có tầng đất dày, có thể đến vài chục mét, thành phân cơ giới phần nhiều nặng. Loại đất này rất thích hợp cho các loạicây công nghiệp nhiệt đới quý như cao su, cà phê, chè, hồ tiêu…

Đất đỏ đá vôi có màu nâu đỏ và vàng tập trung chủ yếu ở Đông Bắc, Tây Bắc và Bắc Trung Bộ, trên những diện tích rộng. Đây cũng là loại đất tốt có cấu tượng bền và tơi xốp, dễ thấm nước, thoáng khí. Đất này thích hợp cho việc trồng nhiều loại cây, từ lúa, ngô, đỗ, lạc cho đến bông, gai, thuốc lá…

Câu 25: Tại sao nói đất đai không phải là tài nguyên vô tận. Đất đai nước ta có những mặt thuận lợi và khó khăn nào?

ĐÁP: Tài nguyên vô tận là loại tài nguyên không khi nào khai thác hết được, ví dụ: năng lượng Mặt Trời, không khí,…Diện tích đất nổi trên bề mặt Trái Đất là một con số hữu hạn 148.825.000 km2, con người không thể khai thác một cách vô hạn được. Mặt khác, quá trình hình thành đất kể từ khi phong hoá đá đến khi con người sử dụng vào canh tác phải trải qua một thời gian hết sức dài. Do vậy, khi đất đai bị thoái hoá thì sẽ mất rất nhiều thời gian, tiền của mới có thể phục hồi lại được. Chính điều đó xác định đất đai không phải là loại tài nguyên vô tận mà thuộc loại tài nguyên có thể phục hồi lại được.

Ở nước ta hiện nay, đất sử dụng cho nông nghiệp khoảng trên dưới 7 triệu ha, nhìn chung có các thuận lợi cơ bản:

- Diện tích đất có thể khai hoang để mở rộng diện tích còn tập trung ở gò đồi, vùng núi và ven biển.

- Có nhiều loại đất khác nhau cho phép phát triển một hệ cây trồng đa dạng, phong phú.

- Có đất tốt với diện tích đáng kể để tăng năng suất cây trồng, như đất phù sa thường xuyên được bồi đắp, đất đỏ ba dan, đất đỏ đá vôi…

Bên cạnh đó khó khăn cũng còn nhiều:

- Còn nhiều diện tích đất xấu (đầm lầy, phèn, chua mặn, bạc màu…) phải cải tạo tốn kém.

- Diện tích đất canh tác bình quân trên đầu người quá nhỏ (0,3 ha/người. Riêng ở đồng bằng Bắc Bộ 0,1 ha/người).

- Trong điều kiện nắng lắm, mưa nhiều, tập trung theo mùa, quá trình xói mòn, rửa trôi và bạc màu diễn ra mạnh mẽ đòi hỏi phải thực hiện nhiều biện pháp bảo vệ đất.

Câu 26: Thế nào là thực vật bản địa, thực vật di cư, thực vật nhập nội? Cho ví dụ.

ĐÁP: Thực vật bản địa là những loài thực vật phát sinh và phát triển ngay trong điều kiện khí hậu, đất đai,…tại chỗ trên lãnh thổ nước ta. Ví dụ: cây lúa nước. Theo nhiều kết quả điều tra nghiên cứu, ở nước ta có 250 loài thực vật bản địa.

- Thực vật di cư là những loài thực vật mà trong quá trình biến đổi của khí hậu Trái Đất, hay trong những lần băng hà tràn xuống rồi rút lui, chúng đến theo và nằm lại. Ví dụ: cây thông pơ mu, sa mu, cây hồi…Những loài thực vật này thường ở những nơi có khí hậu thích hợp, có thể gần tương tự như nơi phát sinh của chúng. Ví dụ: cây thông thường mọc ở nơi khí hậu có tính ôn đới hay cận nhiệt.

- Nếu như hai loại trên chủ yếu là các loài thực vật tự nhiên, thì thực vật nhập nội lại nằng về các loại cây trồng. Thực vật nhập nội ở nước ta có rất nhiều, góp phần làm phong phú hệ thực vật nước ta. Ngô, khoai lang, sắn, lạc, khoai tây, cà chua, bí đỏ, đậu và các cây ăn quả như na, dứa, đu đủ, vú sữa, hồng xiêm; cây công nghiệp như thuốc lá, cao su, có nguồn gốc từ vùng nhiệt đới Trung Nam Mĩ. Thầu dầu, cà phê, dưa hấu thì gốc từ vùng nhiệt đới châu Phi. Một số loài có nguồn gốc từ Ấn Độ như: xoài, me, đay, bông, cà, mướp, dưa chuột. Từ vùng cận nhiệt đới và ôn đới Trung Quốc đến nước ta có nhiều cây ăn quả như cam, quýt, vải, hồng; cây làm thuốc như xuyên khung, sinh địa, một số hoa cảnh như cúc, trà v.v…

Kể cả thực vật nhập nội thì hệ thực vật của nước ta có đến 700 – 800 loài.

Câu 27: Nước ta ở trong vòng đai nhiệt đới. Tại sao có rừng cận nhiệt và rừng ôn đới?

ĐÁP: Tính chất cận nhiệt và ôn đới (kể cả thực vậtrừng lẫn khí hậu) bắt nguồn từ sự phân hoá theo đai cao. Càng lên cao, các yếu tố địa lí tự nhiên như nhiệt độ, áp suất khí quyển, các quá trình phong hoá…thay đổi theo và tạo ra các vành đai khác nhau. Ở chân núi có đai rừng nhiệt đới, lên cao tiếp theo có đai rừng cận nhiệt đới và ôn đới trên núi. Ranh giới các đai này khác nhau từ bắc vào nam, từ tây sang đông. Do các núi ở nước ta chạy theo hướng tây bắc – đông nam nên thường hướng sườn đông ra trước gió mùa Đông Bắc, trong khi sườn tây được che khuất. Hơn nữa, các dãy núi cánh cung ở Đông Bắc Bắc Bộ lại xoè ra kiểu nan quạt làm cho các khối khí lạnh dễ dàng xâm nhập sâu xuống đồng bằng Bắc Bộ, nhiệt độ mùa đông, do đó bị hạ thấp hơn mức bình thường. Kết quả là vành đai cận nhiệt đới và ôn đới ở các cao nguyên phía tây Trường Sơn chỉ thấy xuất hiện ở độ cao 1000 – 1100m, trong khi ở sườn đông là vào khoảng 700 – 800m, còn ở phía đông bắc thì xuống đến 500 – 600m, có khi còn thấp hơn nữa.

Nhờ sự phân hoá tự nhiên theo độ cao (một hiện tượng bình thường ở miền núi) nên mặt dù miền núi nước ta căn bản nằm trong vùng nhiệt đới ẩm vẫn có các loại khí hậu cũng như thực vật của các vĩ tuyến cao hơn.

Câu 28: Rừng rậm và rừng thưa phân biệt với nhau như thế nào?

ĐÁP: Về mặt hình thức, rừng rậm nhiệt đới là rừng có cây cối rậm rạp, nhiều tầng (ở nước ta rừng thường có 5 tầng) dây leo chằng chịt, động vật đa dạng và phong phú…Còn rừng thưa là rừng đã bị tàn phá nhiều hoặc mọc lại. Trong rừng có ít cây lớn, phần lớn chỉ có các loại gỗ tạp, động vật lớn cũng ít, thậm chí không có.

Về bản chất, việc phân loại rừng được căn cứ vào chỉ tiêu mật độ sinh khối.

- Rừng rậm nguyên sinh giàu có trữ lượng gỗ trên 300m3/ha.

- Rừng rậm thứ sinh phục hồi có trữ lượng gỗ 100 – 150m3/ha.

- Rừng trung bình có 120m3/ha.

- Rừng thứ sinh thưa nghèo có trữ lượng gỗ 40m3/ha.

Câu 29: Tại sao tình trạng mất rừng đang là mối đe dọa lớn ở nước ta. Chúng ta phải làm gì để ngăn chặn?

ĐÁP: Lãnh thổ nước ta có đến ¾ là đồi núi. Rừng có lợi ít to lớn nhiều mặt đối với sự phát triển kinh tế, đời sống sinh hoạt và môi trường. Do vậy hiện tượng mất rừng một cách nhanh chóng thực sự là nguy cơ lớn. Chỉ so với năm 1943, thì đến nay tài nguyên rừng của nước ta cạn đi rất nhanh, vượt xa mức báo động thông thường. Độ che phủ rừng trên toàn quốc từ trên 50% trước đây chỉ còn dưới 21%, riêng Bắc Bộ thậm chí dưới 20%, mộtsố vùng ở Tây Bắc chỉ còn dưới 8%, nghĩa là đã mất đi 4,5 triệu ha rừng. Về mặt chất lượng, sự tàn phá còn ghê gớm hơn. Cho đến nay coi như nước ta đã hết loại rừng giàu, có trữ lượng 300m3/ha. Rừng loại khá: 120 – 150m3/ha chỉ còn độ 3,3 triệu ha, rừng xấu có trữ lượng 40 – 70m3/ha có độ khoảng 5 triệu ha, trong khi đó diện tích coi như không còn rừng lên đến 13 triệu ha. Do vậy tính bình quân theo đầu ngườinước ta đạt mức độ rất thấp, chỉ 16m3/người (lúc dân số mới 50 triệu) trong khi đó ở Thái Lan là 105m3/người, Phần Lan là 247m3/người.

Trước tình hình đó, nhiệm vụ cấp bách của chúng ta hiện nay là trồng rừng, khôi phục vốn rừng, đưa tỉ lệ che phủ rừngp lên khoảng 50% trên phạm vi cả nước, đối với miến núi phải đưa lên cao hơn.

Về mặt khai thác, phải tăng cường các biện pháp kĩ thuật để thu được cả cành, ngọn, lá và tránh tình trạng lấy được 1 cây gỗ to thì phá hại hàng chục cây nhỏ khác. Đồng thời, phải có sự quy định khai thác theo nhóm, theo tuổi cây…

Khai thác, bảo vệ và trồng rừng là những biện pháp thường xuyên, cấp bách và đi liền với nhau.

Câu 30: Ở nước ta có một diện tích lớn rừng ngập mặn. Nhưng đặc điểm của rừng ngập mặn là gì? Sự phân bố của chúng ở nước ta ra sao?

ĐÁP: Rừng ngập mặn là rừng ở dải đất ven biển nhiệt đới, phát triển trên các vùng cửa sông bồi tụ với các loại cây điển hình có rễ chùm như tràm, đước, vẹt, mắm, v.v…

Ở nước ta, loại rừng này có chủ yếu ở các vùng cửa sông Thái Bình, sông Hồng, vùng ven biển thuộc đồng bằng sông Cửu Long. Riêng tỉnh Minh Hải có diện tích rộng đến 250.000 ha, trong số 373000 ha rừng ngập mặn ở các tỉnh phía nam, đứng hàng thứ hai về số rừng ngập mặn trên thế giới, sau vùng cửa sông Amadôn ở Nam Mĩ. Ở đây có rừng U Minh rộng đến 190.000 ha, thực vật thống trị có cây tràm, thân cao từ 10 đến 20m, hoa nở trắng xoá về mùa hạ. Thổ nhưỡng của rừng cũng độc đáo: đất than bùn dày từ 2 đến 5m, cấu tạo bằng xác thực vật trải qua hàng trăm năm đã bị chôn vùi ở đây trong một lớp bùn lỏng. Động vật phong phú, nổi tiếng là chim và cá. Phía tây của rừng U Minh kết thúc bằng một dải sú vẹt chạy dài liên tục từ Rạch Giá nối tiếp với dải rừng đước Cà Mau.

Câu 31: Tại sao địa hình miền Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ lại chủ yếu là đồi núi thấp và thấp dần theo hướng tây bắc- đông nam.

ĐÁP: Cũng giống như các miền khác trên lãnh thổ nước ta, cách đây chừng 67 triệu năm, miền Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ là một bề mặt san bằng (bán bình nguyên). Đến giai đoạn Miôxen, cách đây khoảng 26 triệu năm thì bị ảnh hưởng của vận động tân kiến tạo do tác động của vận động tạo sơn Himalaya. So với phần hữu ngạn sông Hồng, vận động nâng lên ở đây yếu. Tuy có làm cho núi non, sông ngòi trẻ lại, kèm theo những hiện tượng đứt gãy khá lớn, nhưng vận động này chủ yếu tạo nên các đồi núi thấp. Trong toàn miền, cường độ nâng lên không đều. Ở Việt Bắc, về phía biên giới Việt - Trung, cường độ nâng lên có thể tới 1000m, trong khi đó bờ biển chỉ nâng trong phạm vi 200 – 500m. Do vậy, miền Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ hiện ra như một bề mặt nghiêng chúc về phía biển.

Câu 32: Giải thích nguyên nhân hình thành các đảo trong vịnh Bắc Bộ.

ĐÁP: Vịnh Bắc Bộ là một châu thổ cũ bị sụt lún. Đã có thời kì đường bờ biển ra đến gần đảo Hải Nam. Trong vịnh có nhiều đảo mà nguồn gốc ban đầu là những đồi xen thung lũng. Sau khi biển tiến tràn ngập thì xảy ra quá trình biển bắt đầu cải tạo lại các quả đồi, mài mòn các chân đồi hoặc bồi đắp các bãi biển. Thường thường, trên các đảo không có sông suối, hiếm nước ngọt, ít dân cư. Trừ vài đảo lớn như Cái Bầu, Cái Bàn, Cát Bà, đa số là những đảo nhỏ đá vôi hình dạng kì thú. Xưa kia có thể có rừng rậm nhiệt đới bao phủ, bằng chứng là những cánh rừng hiện còn tồn tại ở một số nơi trên đảo Cái Bàn, Cát Bà với số lượng động vật khá lớn bao gồm: khỉ, vượn, nai, hoãng, sơn dương….

Câu 33: Phân biệt các loại sương mù, sương móc, sương muối.

ĐÁP: Sương mù là loại sương do sự ngưng kết hơi nước gần mặt đất tạo thành. Những hạt nước trong sương mù rất nhỏ, chỉ nặng vài phần triệu gam và phải trên 1000 hạt mới được 1 cm3.

Sương mù bình thường hình thành vào ban đêm khi mặt đất và không khí bị lạnh đi vì bức xạ. Sương mù bức xạ xuất hiện trong điều kiện độ ẩm tương đối cao, trời quang, lặng gió giống như một tấm màn giăng trên mặt đất. Sau khi mặt trời mọc, màn sương mù tan đi. Nếu mặt đất có cây cỏ thì lớp sương mù càng dày. Sương mù hay xuất hiện ở các vùng thấp vì ban đêm không khí lạnh tràn xuống.

Trong điều kiện nhiệt độ của mặt đất hạ xuống đến đến điểm sương và trời quang, gió lặng thì có sương đọng lại trên mặt đất, ngọn cỏ, lá cây gọi là sương móc. Sương móc rất có lợi cho sản xuất nông nghiệp vì nó cung cấp cho cây trồng một lượng nước đáng kể.

Trong khi sương móc hình thành, nếu nhiệt độ mặt đất vẫn tiếp tục hạ xuống dưới 00C, thì hơi nước đọng lại thành những hạt băng trắng như muối. Nhiệt độ không khí lúc đó rất thấp. Thời tiết có sương muối rất hại cho cây trồng vì nó làm cho nước đông lại trong thân cây, phá hoại tổ chức bên trong của cây.

Nếu sương mù hình thành trong điều kiện không khí chuyển động theo chiều ngang do một luồng không khí lạnh tràn tới vùng có không khí nóng, hoặc một luồng không khí nóng thổi tới nơi có không khí lạnh thì đó là sương mù bình lưu. Sương mù này thường thường xuất hiện vào cuối thu, trong mùa đông và đầu xuân ở trên đất liền. Trên biển thường có vào mùa nóng và ở những nơi gặp nhau của hai dòng biển nóng và lạnh.

Câu 34: Có gì khác nhau giữa hai cách nói: bảo vệ môi trường và bảo vệ tự nhiên? Hiểu khái niệm ô nhiễm môi trường như thế nào cho đầy đủ?

ĐÁP: Theo quan niệm hiện nay, khái niệm một môi trường bao gồm: môi trường tự nhiên, môi trường xã hội, môi trường văn hoá. Như vậy, khái niệm bảo vệ môi trường có phạm vi khá rộng. Còn bảo vệ tự nhiên thì chỉ bó hẹp vào việc bảo vệ các thành phần trong môi trường tự nhiên như: đất đai, thực vật, động vật…

Ô nhiễm môi trường là danh từ, về nguyên tắc dùng chung cho cả 3 loại môi trường nói trên. Ví dụ: trong những năm qua, môi trường văn hoá bị ô nhiễm bởi sự xuất hiện của hàng loạt sách báo, văn hoá phẩm đồi truỵ. Tuy nhiên, hiện nay trong thực tế phần lớn các trường hợp nói ô nhiễm đều chủ yếu là nói về sự ô nhiễm của môi trường tự nhiên. Sự ô nhiễm này về bản chất là sự nhiễm bẩn và làm biến chất các nguồn tài nguyên và các thành phần tự nhiên nói chung do hoạt động có ý thức hoặc vô ý thức của con người.

Sự ô nhiễm đó hiện nay đang diễn ra ở tất cả các thành phần từ không khí đến nước (nước sông, hồ, đầm, đại dương…), đất đai, động thực vật, đặc biệt nguy hiểm là sự ô nhiễm có ảnh hưởng đến sức khoẻ của con người và nhiều khi có tác động xấu đến đời sống của các sinh vật trên toàn bộ hành tinh. Vì vậy, việc chống ô nhiễm là một mặt rất quan trọng của vấn đề bảo vệ môi trường.

Câu 35: So với miền Bắc và Đông Bắc, địa hình miền Tây Bắc và Bắc Trung Bộ hết sức phức tạp và đa dạng. Giải thích điều đó như thế nào?

ĐÁP: Miền Tây Bắc và Bắc Trung Bộ có địa hình đa dạng và phức tạp. Ở đây có dủ núi thấp (500 – 1500m), núi trung bình (1500 – 2500m), có cả thung lũng sâu, vực thẳm, sườn dốc lẫn thung lũng mở rộng, có cả các cao nguyên đá vôi rộng lẫn các đồng bằng giữa núi với diện tích đáng kể. Đặc điểm đó có liên quan chặt chẽ tới lịch sử phát triển của miền. Khác với miền Bắc và Đông Bắc là nơi có tính chuyển tiếp của một nền hoạt động, sự phức tạp của Tây Bắc và Bắc Trung Bộ là kết quả của một lịch sử phát triển đầy biến động của một địa tào điển hình trải qua hang chục triệu năm và gần đây nhất là vận động tạo sơn Himalaya ở thời kì Miôxen. Chính vận động tân kiến tạo này đã làm thay đổi bán bình nguyên cổ đưa đến bộ mặt ngày nay. Vận động này ảnh hưởng mạnh ở phần tây sâu trong lục địa (biên độ nâng có thể 1000 m và càng về phía ngoài ven biển càng yếu, có chỗ chỉ không quá 200m). Do vậy, tại phía biên giới Việt _ Trung có rất nhiều núi cao, nhiều đỉnh vượt quá 3000m. Càng về phía châu thổ sông Mã – Chu địa hình càng thấp dần. Từ phía nam sông Cả, vận động nâng cao nhất là ở gần biên giới Việt – Lào (khoảng 900m), sau đó giảm dần về cả hai phía. Tuy nhiên, phía động dốc nhiều, phía Tây thoải dần, tạo nên dãy Trường Sơn có hai sườn không đối xứng.

Tân kiến tạo nâng mạnh nhưng nâng muộn, tạo nên những núi cao và núi trung bình. Vận động này lại có tính chất không liên tục cho nên sinh ra các bậc địa hình khác nhau từ độ cao 2200m xuống 1800 m, 1500m và 700m – Do sông suối đào lòng dữ dội nên lòng sông dốc và lắm thác ghềnh. Ở đây cũng không có vùng đồi thấp trung du rõ nét như ở miền Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ. Núi lại tiến ra sát biển, nên dải đồng bằng duyên hải đã hẹp lại có nhiều đồi sót rải rác, có nơi đồi sót tạo nên vách biển, có nơi tạo thành các đảo nhỏ ven bờ.

Câu 36: Tại sao ở miền Tây Bắc và Bắc Trung Bộ mùa đông ngắn và ít sâu sắc hơn ở miền Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ? Mùa hạ ở đây lại đến sớm và không có mưa phùn?

ĐÁP: Các điều kiện khí hậu có quan hệ mật thiết với vị trí địa lí và các đặc điểm địa hình trong miền. Do các khối núi cao chạy theo hướng Tây Bắc – Đông Nam nên đã làm cho số lần phrông lạnh tràn tới miền Tây Bắc và Bắc Trung Bộ chỉ bằng trên dưới 1/2 lần của miền Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ. Như thế trung bình cứ 2 lần phrông lạnh tràn xuống Việt Nam thì có 1 lần không qua được các khối núi bình phong, nhất là vào đầu và cuối mùa lạnh. Không khí lạnh chỉ tràn vào Tây Bắc qua các thung lũng sông ăn thông xuống đồng bằng duyên hải, hoặc qua các đèo ở dãy Hoàng Liên Sơn. Do vậy, khi đến Tây Bắc, không khí lạnh đã bị biến tính (nóng lên và khô đi). Vì thế, nền nhiệt độ ở đây so với nơi có cùng độ cao tuyệt đối của khu Việt Bắc và Đông Bắc thì nóng hơn đến 2-3°. Phải lên đến độ cao 500m mới có tháng rét dưới 15°.

Ở phía Mianma (Miến Điện) và có khi lấn sang Tây Bắc Việt Nam hay xuất hiện một áp thấp ngay cả trong mùa đông: khi có áp thấp, thời tiết nóng dễ xuất hiện, đôi khi có cả giông trái mùa. Đây cũng là điều kiện làm cho mùa đông ở Tây Bắc có phần nóng và ngắn, mùa hạ đến sớm, không có mùa xuân mưa phùn ảm đạm như Bắc Bộ và Thanh Hóa.

Câu 37: “Lũ tiểu mãn” là thế nào? Tại sao có lũ “tiểu mãn”?

ĐÁP: Tiểu mãn là 1 trong 24 tiết của âm dương lịch. Tiết này bao giờ cũng vào tháng 5 (ngày 21-5). Hàng năm ở Bắc Trung Bộ thường có một trận lũ sớm vào tháng này, nên gọi là “lũ tiểu mãn”

Nguyên nhân của lũ này là do các cơn giông đầu mùa nóng gây nên. Các cơn giông này có liên quan đến hoạt động của phrông cực và đường hội tụ nhiệt đới.

Câu 38: Đầm phá là một dạng địa hình độc đáo ở duyên hải miền Trung, đặc biệt ở Thừa Thiên – Huế. Nguyên nhân hình thành và diện mạo của địa hình ra sao?

ĐÁP: Đầm phá nói ở đây là đầm phá tự nhiên. Ở ven biển Thừa Thiên – Huế có một dải đầm phá dài 60 km, rộng từ 1 đến 6 km, sâu từ 0.1 – 0.3 km. Các đầm phá này thông với nhau, tạo thành một dải và bị ngăn cách với biển bằng một lưỡi cát kéo dài, có chỗ cao 30 m. Đầm phá thông với biển qua các cửa hẹp (mỗi cửa rộng khoảng 1 – 1,5 km). Đầm phá cũng là nơi các con sông đổ nước vào, do đó ở đây có nước lợ và rất giàu tôm, cá, rau câu…

Dải đầm phá ở Bắc Trung Bộ được hình thành cách đây trên 3000 năm. Nguyên nhân chủ yếu là do sự tích tụ vật liệu trầm tích ở sau một mũi đất nhô ra biển, hình thành trên một doi cát. Doi cát này càng ngày càng dài ra , vây kín một vùng nước biển tạo thành đầm. Đầm vẫn có nước sông trong đất liền chảy ra và vẫn có cửa thông với biển nên gọi là phá. Ví dụ: phá Tam Giang.

Câu 39: Việc xây dựng các hồ chứa nước kết hợp với việc phát triển thủy điện ở phần thượng lưu của các con sông ở phía bắc có tác dụng như thế nào?

ĐÁP: Tiềm năng thủy điện của các con sông miền núi ở phía Bắc rất lớn. Việc khai thác tiềm năng đó bằng cách xây dựng các nhà máy thủy điện từ trước tới nay ta đã làm nhiều. Ngoài những nhà máy nhỏ, ta đã có một số nhà máy, ta đã có một số nhà máy thủy điện lớn mà nổi bật là nhà máy thủy điện Hòa Bình, có công suất lớn nhất Đông Dương, cung cấp điện cho cả nước,

Đi đôi với việc xây dựng các đập thủy điện, cần có những hồ nước nhân tạo để đảm bảo khối lượng nước chảy thường xuyên trong lòng sông phục vụ cho hoạt động của nhà máy thủy điện.

Ngoài ra, việc xây dựng các hồ chứa nước còn có tác dụng điều tiết chế độ nước của các sông trong mùa cạn và mùa lũ, góp phần hạn chế ngập lụt ở đồng bằng hạ lưu trong mùa mưa, đồng thời phần nào cũng đảm bảo được việc giao thông vận tải trên sông và phát triển được việc nuôi trồng thủy sản.



  • Chia sẻ:
  • Tốc độ dòng chảy của sông ở đồng bằng và miền núi có khác nhau không vì sao
  • Tốc độ dòng chảy của sông ở đồng bằng và miền núi có khác nhau không vì sao
  • Tốc độ dòng chảy của sông ở đồng bằng và miền núi có khác nhau không vì sao
  • |
  • Tốc độ dòng chảy của sông ở đồng bằng và miền núi có khác nhau không vì sao
    In bài viết

Chuyên đề sông ngòi Việt Nam

Cau_hoi_ve_song_ngoi_Viet_Nam5db006e7da431.docx
Đọc bài Lưu

Trong giảng dạy địa lí tự nhiên Việt Nam, các kiến thức về sông ngòi chưa được chú trọng đầu tư; các dạng bài tập, câu hỏi vận dụng chưa được khai thác sâu. Lượng bài tập của sông ngòi trong kiến thức tự nhiên Việt Nam còn khiêm tốn so với các thành phần tự nhiên khác. Do đó, chuyên đề: Hệ thống hóa một số dạng câu hỏi, bài tập phần sông ngòi Việt Nam trong bồi dưỡng học sinh giỏi Địa lí giúp giải quyết khó khăn nêu trên.

I. LÍ DO, MỤC TIÊU

1.1. Lí do chọn chuyên đề

Trong giảng dạy địa lí tự nhiên Việt Nam, các kiến thức về sông ngòi chưa được chú trọng đầu tư; các dạng bài tập, câu hỏi vận dụng chưa được khai thác sâu. Lượng bài tập của sông ngòi trong kiến thức tự nhiên Việt Nam còn khiêm tốn so với các thành phần tự nhiên khác. Do đó, trong buổi sinh hoạt chuyên môn cụm Vĩnh Linh - Gio Linh, tôi chọn chuyên đề: Hệ thống hóa một số dạng câu hỏi, bài tập phần sông ngòi Việt Nam trong bồi dưỡng học sinh giỏi Địa lí, để trao đổi và mong nhận được chia sẻ kinh nghiệm từ quý thầy, cô giáo đồng môn.

1.2. Mục tiêu chuyên đề

Chuyên đề tập trung đưa ra một số dạng câu hỏi, bài tập về sông ngòi Việt Nam trong bồi dưỡng học sinh giỏi Địa lí.

II. CÂU HỎI, BÀI TẬP VỀ SÔNG NGÒI VIỆT NAM

2.1. Định hướng câu hỏi

- Câu hỏi tập trung vào các dạng kĩ năng: Khai thác, sử dụng Atlat Địa lí Việt Nam và Phân tích bảng số liệu.

- Các câu hỏi lí thuyết với các cấp độ tư duy: Tái hiện (trình bày), Vận dụng (chứng minh, so sánh, giải thích, phân tích).

2.2. Một số dạng câu hỏi theo các cấp tư duy

2.2.1 Câu hỏi lí thuyết

a, Dạng câu hỏi tái hiện kiến thức

Câu 1: Dựa vào Atlat Địa lí Việt Nam và kiến thức đã học, hãy: Trình bày đặc điểm sông ngòi nước ta.

Định hướng trả lời:

- Câu hỏi trình bày kiến thức đã học: đặc điểm sông ngòi Việt Nam và giải thích đặc điểm đó dựa trên Atlat ĐLVN.

- Đặc điểm sông ngòi VN: mạng lưới sông dày đặc, sông nhiều nước, giàu phù sa, chế độ nước theo mùa và thất thường

Gợi ý trả lời:

- Mạng lưới sông ngòi dày đặc: chỉ tính những con sông dài trên 10km thi cả nước có 2360 con sông (sông Hồng, sông Đà, sông Lô, sông Đồng Nai…). Đi dọc bờ biển cứ 20km lại gặp một cửa sông. Mật độ sông là 0,6 km/km2.

Sông ngòi nước ta phần lớn là sông nhỏ do lãnh thổ hẹp ngang (các sông ở duyên hải miền Trung: sông Hiếu, sông Con, sông Trà Khúc…)

->Nguyên nhân là do nước ta có lượng mưa lớn trên địa hình chủ yếu là đồi núi và bị cắt xẻ mạnh, độ dốc lên do đó mạng lưới sông ngòi dày đặc.

- Sông ngòi nhiều nước, giàu phù sa:

+ Sông ngòi nước ta có lượng nước lớn, tổng lượng nước của tất cả sông ngòi chảy trên lãnh thổ là 839 tỉ m3/năm. Trong đó có 60% lượng nước được cung cấp từ phần lưu vực ngoài lãnh thổ: hệ thống sông Cửu Long, hệ thống sông Hồng...

+ Sông ngòi giàu phù sa: tổng lượng phù sa hàng năm của hệ thống sông ngòi trên phần lãnh thổ nước ta là khoảng 200 triệu tấn/năm (hệ thống sông Hồng chiếm khoảng 60%, sông Mê Kông khoảng 35%)

-> Nguyên nhân: sông ngòi nước ta có lượng mưa lớn, mặt khác lại có lượng nước lớn từ lưu vực ngoài lãnh thổ. Sông giàu phù sa do hệ quả của quá trình xâm thực mạnh và bào mòn mạnh mẽ của địa hình.

- Thủy chế theo mùa:

+ Chế độ dòng chảy của sông ngòi nước ta phù hợp với sự phân mùa của lượng mưa. Mùa lũ trùng với mùa mưa, mùa cạn trùng với mùa khô. Mực nước trên sông giữa hai mùa chênh lệch rất lớn, mùa lũ mực nước chiếm tới trên 70 - 80% tổng lượng nước, mùa cạn ít nước chỉ chiếm 20 – 30% (đặc biệt là sông ngòi ở miền Nam Trung Bộ và Nam Bộ)

+ Chế độ mưa diễn biến thất thường nên chế độ dòng chảy sông ngòi cũng thất thường: có năm mùa lũ sớm, có năm lũ muộn gây ra hiện tượng lũ lụt, hạn hán gây ảnh hưởng tới các hoạt động sản xuất và đời sống của nhân dân. Vì vậy cần phải đầu tư, phát triển thủy lợi để chủ động tới tiêu.

-> Nguyên nhân: chế độ nước sông phụ thuộc vào chế độ mưa, chế độ mưa theo mùa nên thủy chế sông ngòi nước ta cũng theo mùa. Chế độ mưa diễn biến thất thường nên chế độ dòng chảy cũng thất thường.

Câu 2: Dựa vào Atlat Địa lí Việt Nam và kiến thức đã học, hãy: Trình bày đặc điểm sông ngòi của miền Nam Trung Bộ và Nam Bộ.

Định hướng trả lời:

- Trình bày đặc điểm sông ngòi của một miền dựa vào kiến thức đã học và Atlat ĐLVN.

- Đặc điêm sông ngòi miền NTB và NB: mạng lưới sông, hướng chảy, lưu lượng nước và lượng phù sa, chế độ nước, đặc điểm lưu vực.

Gợi ý trả lời

* Khái quát:

- Có phạm vi từ dãy Bạch Mã trở vào.

- Phía bắc giáp miền TB và BTB, phía tây giáp Lào và Campuchia, phía đông, nam và tây nam giáp Biển Đông.

* Đặc điểm sông ngòi:

- Mạng lưới sông ngòi dày đặc, đặc biệt là Nam Bộ. Có nhiều hệ thống sông lớn: sông Tiền, , sông Đà Rằng, sông Đồng Nai…

- Hướng chảy:

+ Hướng tây bắc – đông nam: chủ yếu các con sông chảy theo hướng này hệ thống sông Mê Kông, sông Đak Nông, sông Cái…

+ Hướng vòng cung: sông Đồng Nai, sông Bé, sông Thu Bồn…

- Đặc điểm lưu vực:

+ Diện tích các lưu vực sông: Khu vực duyên hải lưu vực sông nhỏ như sông Kì Lộ, sông Trà Khúc… Các khu vực còn lại diện tích lưu vực sông lớn hơn đặc biệt là diện tích lưu vực sông Mê Kông gồm 2 phần ở cả Tây Nguyên và Nam Bộ (sông Đồng Nai 40.000 km2, sông 795.000 km2)

+ Độ dốc lưu vực: Khu vực duyên hải độ dốc lưu vực lớn, sông ngắn và dốc. Ở Nam Bộ độ dốc rất nhỏ.

- Tổng lượng nước lớn: sông Mê Kông có tổng lượng nước lớn nhất cả nước 475 tỉ m3, sông Đồng Nai 37 tỉ m3, sông Srê Pôk 30 tỉ m3…

- Lượng phù sa: hệ thống sông Mê Kông có lượng phù sa lớn thứ 2 cả nước 70 triệu tấn/năm, các sông ở vùng duyên hải không đáng kể

- Chế độ nước: Chế độ nước theo mùa, phân hóa phức tạp:

+ Nam Trung Bộ mùa lũ từ tháng IX đến tháng XII, cực đại vào tháng XI

+ Nam Bộ mù lũ từ tháng VII đến tháng XI, cực đại vào tháng IX hoặc tháng X.

b, Dạng câu hỏi vận dụng

*Dạng chứng minh

Câu 3: Dựa vào Atlat Địa lí Việt Nam và kiến thức đã học, hãy chứng minh sông ngòi miền Tây Bắc và Bắc Trung Bộ có sự phân hóa đa dạng.

Định hướng trả lời:

- Câu hỏi chứng minh, tìm bằng chứng để chứng tỏ sông ngòi TB và BTB phân hóa phức tạp dựa vào kiến thức và Atlat ĐLVN.

- Sự phân hóa đa dạng của sông ngòi: mật độ, hướng chảy, chiều dài, độ dốc, thủy chế, hàm lượng phù sa, giá trị kinh tế…

Gợi ý trả lời:

* Khái quát về miền tự nhiên TB và BTB:

- Giáp Trung Quốc phía bắc, giáp miền Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ ở phía đông, giáp biển Đông ở phía đông, giáp miền Nam Trung Bộ phía nam, giáp Lào phía tây.

- Đây là miền có lãnh thổ kéo dài hẹp ngang theo chiều đông – tây. Tuy cùng nằm trong một miền tự nhiên nhưng đặc điểm sông ngòi của miền có sự phân hóa rõ rệt.

* Sự phân hóa về sông ngòi

- Phân hóa về mật độ:

+ Mật độ sông ở vùng TB thấp so với BTB.

+ Nguyên nhân là do TB có diện tích rộng lớn, phần lớn địa hình là núi non hiểm trở trong khi đó BTB có diện tích hẹp nhưng có nhiều sông nhỏ bắt nguồn từ vùng núi phía tây đổ ra biển.

- Sự phân hóa theo hướng chảy:

+ Hướng tây bắc – đông nam: sông ở TB và bắc BTB như sông Đà, sông Mã, sông Cả. Do hướng nghiêng chung của địa hình và hướng các dãy núi, cao nguyên trong miền quy định.

+ Hướng tây – đông: phía nam BTB như sông Bến Hải, sông Cam Lộ, sông Bồ… Do địa hình hẹp ngang, núi lan sát ra biển, các sông đều bắt nguồn từ sườn đông của dãy Trường Sơn và đổ trực tiếp ra biển.

- Sự phân hóa theo chiều dài và độ dốc (hình thái sông)

+ Sông có chiều dài lớn, độ dốc lòng sông nhỏ hơn: vùng TB và bắc BTB. Do sông chảy trong vùng có diện tích rộng lớn nên các sông này có chiều dài lớn và độ dốc trung bình nhỏ.

+ Sông ngắn, nhỏ và dốc: sông phía nam BTB. Do đây là nơi lãnh thổ hẹp nhất nước ta, sông bắt nguồn từ sườn núi cao của dãy Trường Sơn và đổ ra biển.

- Sự phân hóa về thủy chế:

+ Tổng lưu lượng dòng chảy: sông ở TB và bắc BTB có tổng lưu lượng dòng chảy lớn hơn sông ở nam BTB. Do các sông này có diện tích lưu vực và chiều dài lớn trong khi sông ở nam BTB lại có diện tích lưu vực và dòng chảy ngắn.

+ Đặc điểm thủy chế: sông ngòi của miền tuy có sự phân mùa lũ – cạn nhưng vẫn có sự phân hóa rõ rệt:

○ Sông TB có lũ vào mùa hạ. Do chế độ mưa vào mùa hạ, nhhuw trạm Điện Biên Phủ, Sa Pa đều có mùa mưa diễn ra từ tháng V đến tháng X. Mùa cạn vào thu đông trùng với mùa khô của khí hậu.

○ Sông BTB có chế độ lũ phức tạp: mùa lũ tập trung vào các tháng cuối năm từ IX đến XII, lũ lên nhanh, xuống nhanh. Do BTB có chế độ mưa vào thu đông, lượng mưa lớn vào các tháng cuối năm (trạm Đồng Hới có mùa mưa từ VIII đến XII, lượng mưa cao nhất vào tháng X). Lũ lên nhanh và xuống nhanh do sông ngoài thường là sông nhỏ, ngắn và dốc.

Ngoài lũ chính vào các tháng cuối năm, đầu mùa hạ mực nước dâng lên thấp nhưng vẫn tạo nên đỉnh lũ phụ - lũ tiểu mãn.

- Sự phân hóa về hàm lượng phù sa:

+ Lượng phù sa lớn hơn ở sông TB và bắc BTB do TB có tỉ lệ che phủ rừng còn rất thấp, địa hình dốc, mưa lớn vào mùa hạ.

+ Lượng phù sa nhỏ hơn ở nam BTB do tỉ lệ che phủ rừng còn cao.

- Sự phân hóa về giá trị kinh tế của sông ngòi:

+ Sông có nhiều giá trị về mặt thủy điện, giao thông vận tải, bồi đắp phù sa: sông ở TB và bắc BTB (sông Đà) do là những sông lớn có nhiều thác ghềnh.

+ Giá trị về mặt kinh tế nhỏ hơn là sông ở nam BTB do sông có tổng lượng nước thấp, các sông đều nhỏ, ngắn, dốc.

-> Sự phân hóa của sông ngòi miền TB và BTB nổi bật là sự phân hóa theo chiều Bắc – Nam. Nguyên nhân chính là do đặc điểm địa hình, hình dạng lãnh thổ và khí hậu có sự phân hóa theo chiều Bắc – Nam dẫn đến sự phân hóa sông ngòi

Dạng so sánh

Câu 4: Dựa vào Atlat Địa lí Việt Nam và kiến thức đã học, hãy so sánh đặc điểm sông ngòi miền Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ với miền Tây Bắc và Bắc Trung Bộ.

Định hướng trả lời:

- Câu hỏi so sánh đặc điếm giống và khác nhau sông ngòi của hai miền B và ĐBBB và TB và BTB

- Tìm các tiêu chí so sánh:

+ Giống: Mật độ sông ngòi, hướng chảy, tổng lượng dòng chảy..

+ Khác: mật độ lưới sông, độ dài sông, diện tích lưu vực, hàm lượng phù sa, chế độ nước, nơi sông đổ ra, số lượng cửa sông…

- Dựa vào kiến thức đã học và Atlat ĐLVN hoàn thành nội dung các tiêu chí.

Gợi ý trả lời:

* Khái quát:

- Miền Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ: nằm ở tả ngạn sông Hồng, phía bắc giáp Trung Quốc, phía đông và đông nam giáp Vịnh Bắc Bộ, phía tây và tây nam giáp miền Tây Bắc và Bắc Trung Bộ.

- Tây Bắc và Bắc Trung Bộ: giáp Trung Quốc phía bắc, giáp miền Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ ở phía đông, giáp biển Đông ở phía đông, giáp miền Nam Trung Bộ phía nam, giáp Lào phía tây.

* Giống nhau

- Đều có mạng lưới sông ngòi dày đặc:

+ Có nhiều hệ thống sông lớn: sông Đà, sông Hồng, sông Thái Bình…

+ Hệ thống chi lưu và phụ lưu của các con sông rất nhiều.

- Hướng của sông ngòi theo hướng tây bắc – đông nam: sông Đà, sông Hồng, sông Chảy…

- Tổng lượng nước, hàm lượng phù sa lớn: sông Hồng là hợp lưu của sông Đà và sông Hồng có lưu lượng nước 83,5 tỷ m³ với lượng phù sa là 120 triệu tấn/năm.

+ Thủy chế theo mùa: mùa lũ trùng với mùa mưa, mùa cạn trùng với mùa khô

* Khác nhau:

- Đặc điểm lưu vực:

+ Diện tích lưu vực sông: MB và ĐBBB có diện tích lưu vực sông lớn hơn, sông ngòi có nhiều chi lưu và phụ lưu hơn so với TB và BTB. Do độ cao địa hình thấp, cấu tạo địa chất mềm hơn, lượng mưa lớn nên sông ngòi bị cắt xẻ mạnh -> mạng lưới sông ngòi dày đặc.

+ Độ dốc lưu vực: TB và BTB có độ dốc sông lớn, lòng sông hẹp nhiều thác ghềnh do địa hình cao và hiểm trở bậc nhất cả nước. MB và ĐBBB có độ dốc nhỏ hơn do địa hình thấp hơn, diện tích đồng bằng lớn.

- Hướng chính các con sông:

+ MB và ĐBBB bao gồm hướng TB – ĐN và vòng cung do chịu chi phối từ hướng địa hình TB – ĐN và các dãy núi chạy theo hướng vòng cung ở phía đông.

+ TB và BTB chủ yếu là hướng TB – ĐN do ảnh hưởng của hướng nghiêng địa hình và các dãy núi chính.

- Chế độ nước:

+ MB và ĐBBB mùa lũ kéo dài từ tháng VI đến tháng IX do trùng với mùa mưa, mùa cạn kéo dài từ tháng tháng X đến tháng V năm sau.

+ TB và BTB các con sông ở BTB có mùa lũ đến muộn hơn từ tháng IX đến tháng XII do có chế độ mưa vào thu đông, lượng mưa lớn vào các tháng cuối năm.

Câu 5: Dựa vào Atlat Địa lí Việt Nam và kiến thức đã học, hãy so sánh đặc điểm hệ thống sông Hồng và sông Đồng Nai.

Định hướng trả lời:

- Câu hỏi so sánh đặc điếm giống và khác nhau sông Hồng và sông Đồng Nai.

- Tìm các tiêu chí so sánh:

+ Giống: mạng lưới sông, hướng chảy, lưu lượng nước và phù sa, thủy chế sông ngòi.

+ Khác: mật độ lưới sông, độ dài sông, diện tích lưu vực, hàm lượng phù sa, chế độ nước, nơi sông đổ ra, số lượng cửa sông…

- Dựa vào kiến thức đã học và Atlat ĐLVN hoàn thành nội dung các tiêu chí.

Gợi ý trả lời:

* Khái quát: Hệ thống sông Hồng nằm ở MB và ĐBBB, hệ thống sông Đồng Nai nằm ở miền NTB và NB…

* Giống nhau:

- Đều có mạng lưới sông ngòi dày đặc.

- Hướng sông chính là TB – ĐN.

- Sông nhiều nước và giàu phù sa.

- Thủy chế nước theo mùa, mùa lũ trùng với mùa mưa, mùa cạn trùng với mùa khô.

* Khác nhau:

- Đặc điểm lưu vực sông:

+ Diện tích lưu vực: hệ thống sông Hồng có diện tích lớn hơn chiếm 21,91% (86,6 nghìn km2) diện tích lưu vực cả nước, sông Đồng Nai chiếm 11,27% (33,5 nghìn km2).

+ Chiều dài sông: sông Hồng có chiều dài ở nước ta (650km) dài hơn sông Đồng Nai là (437km).

+ Sông Hồng có nhiều phụ lưu và chi lưu hơn sông Đồng Nai.

- Tổng lượng nước: Sông Hồng có lượng nước (83,7 tỉ m3) lớn hơn sông Đồng Nai (33,5 tỉ m3).

-> Nguyên nhân: Do sông Hồng có diện tích lưu vực lớn, có nhiều phụ lưu và chi lưu, nguồn cung cấp nước ngoài lãnh thổ lớn.

- Lượng phù sa: Sông Hồng có lượng phù sa (trên 120 triệu tấn/năm) lớn hơn rất nhiều sông Đồng Nai (khoảng 50 tấn/năm).

- Chế độ nước:

+ Sông Hồng: mùa lũ kéo dài từ tháng VI đến tháng X. Đỉnh lũ vào tháng 8.

+ Sông Đồng Nai: mùa lũ kéo dài từ V đến tháng X

Câu 6: Dựa vào Atlat Địa lí Việt Nam và kiến thức đã học, hãy so sánh những điểm khác nhau về thủy chế sông ngòi của 3 hệ thống sông: sông Hồng, sông Cửu Long và các sông vùng duyên hải miền Trung. Giải thích?

Định hướng trả lời:

- Câu hỏi so sánh điểm khác nhau thủy chế sông ngòi của 3 hệ thống sông. Giải thích các điểm khác nhau đó.

- Tìm các tiêu chí so sánh sự khác nhau: đặc điểm mùa lũ, mùa cạn, lượng lượng nước, chế độ nước…

- Dựa vào kiến thức đã học và Atlat ĐLVN hoàn thành nội dung các tiêu chí.

- Giải thích lần lượt khi trình bày sự khác nhau.

Gợi ý trả lời:

* Sông Hồng:

- Đặc điểm:

+ Mùa lũ từ tháng VI đến tháng X, lưu lượng mùa lũ gấp 4 lần mùa cạn.

+ Lũ lên nhanh và đột ngột, rút chậm. Chế độ nước thất thường, phức tạp

- Nguyên nhân do địa hình lòng sống dốc, nguồn cung cấp nước nhiều do lượng mưa lớn. Hình dạng sông là hình nan quạt nên lũ lên rất nhanh do phụ lưu nhiều nhưng lượng chi lưu ít, chỉ có 1 cửa sông chính đổ ra biển nên thoát nước chậm.

* Sông Cửu Long:

- Đặc điểm:

+ Mùa lũ từ tháng VII đến tháng XI.

+ Nước sông điều hòa, không phức tạp, lũ lên chậm, rút chậm

- Nguyên nhân:

+ Sông dài và diện tích lưu vực lớn, độ dốc lòng sông nhỏ

+ Mạng lưới kênh rạch chằng chịt, hình dạng lưới sông hình lông chim, nước sông điều tiết từ từ theo phụ lưu.

+ Có sự điều tiết nước của Biển Hồ ở Cam-pu-chia

* Sông ở duyên hải miền Trung:

- Đặc điểm:

+ Mùa lũ tập trung vào các tháng cuối năm từ tháng IX đến tháng XII.

+ Lũ lên rất nhanh và đột ngột, nhất là khi gặp mưa vào bão lớn

- Nguyên nhân:

+ Sông ngòi của vùng thường ngắn và dốc, phân thành nhiều lưu vực nhỏ độc lập.

+ Mùa lũ trùng với mùa mưa khi có sự xuất hiện của dải hội tụ nhiệt đới, bão thường xuất hiện cùng với hoạt động của gió mùa Đông Bắc… gây mưa to, nước thượng nguồn đổ về, thủy triều sóng biển dâng lên làm chế độ nước sông phức tạp.

Dạng giải thích

Câu 7: Dựa vào Atlat Địa lí Việt Nam và kiến thức đã học, hãy giải thích tại sao lũ trên các sông ở Bắc Trung Bộ lại lên rất nhanh?

Định hướng trả lời:

- Câu hỏi giải thích, tìm nhân tố tác động đến chế độ lũ của sông BTB.

- Giải thích dựa trên nhân tố ảnh hưởng đến sông ngòi: địa hình, khí hậu, lớp phủ thực vât, hệ thống phụ lưu, chi lưu…

Gợi ý trả lời:

- Do địa hình của BTB có độ dốc lớn làm lượng nước tập trung nhanh.

- Các con sông BTB chủ yếu là sông ngắn, nhỏ do địa hình hẹp ngang nhất cả nước núi lan sát ra biển, sông bắt nguồn từ sườn Tây dãy Trường Sơn Bắc đổ ra biển Đông.

- Trong năm có mùa mưa với lượng mưa lớn tập trung vào thu đông, mùa cạn mực nước sông thấp do mưa rất ít.

- Lớp phủ thực vật bị hạn chế…

Câu 8: Dựa vào Atlat Địa lí Việt Nam và kiến thức đã học, hãy:

1. Giải thích vì sao lũ ở Đồng bằng sông Cửu Long lên chậm?

2. Nước ta đã có những giải pháp nào để ứng phó với tình hình lũ lụt ở Đồng bằng sông Cửu Long? Vì sao?

Định hướng trả lời:

- Câu hỏi tìm nhân tố tác động đến đặc điểm lũ sông ĐBSCL lên chậm: đặc điểm địa hình, lưu vực sông, sự điều tiết nước từ phụ lưu, đặc điểm sinh vật bên sông…

- Dựa vào kiến thức để trình bày giải pháp ứng phó với tình hình lũ ĐBSCL và đưa ra lí do lựa chọn giải pháp đó.

Gợi ý trả lời:

* Khái quát: Sông Mê Kông là một trong những con sông lớn trên Trái Đất, bắt nguồn từ Trung Quốc, đi qua 4 nước trước khi đến Việt Nam. Sông Mê Kông nhiều nước vào các tháng mưa nhiều từ tháng VII đến tháng IX, và lũ đến Việt Nam vào khoảng tháng VIII, IX. Tại Việt Nam, sông được gọi là Sông Cửu Long.

1. Lũ ở Đồng bằng sông Cửu Long lên chậm là do:

- Sông chảy qua các vùng địa hình bằng phẳng, nhiều vùng thấp trũng làm cho lòng sông rộng và nông, nhiều nơi lũ chảy tràn tốc độ dòng chảy chậm.

- Có nhiều chi lưu, hồ điều tiết và thoát lũ:

+ Từ Phnôm Pênh sông chia thành 3 chi lưu: Biển Hồ, sông Hậu, sông Tiền. Sông Tiền đổ ra Biển Đông qua 6 cửa, sông Hậu đổ ra Biển Đông 3 cửa sông.

+ Có nhiều kênh thoát lũ từ sông Hậu ra biển Tây (vịnh Thái Lan) như kênh Vĩnh Tế, Phụng Hiệp, Rạch Sỏi.

- Sông có nhiều cù lao, thảm thực vật phát triển mạnh, nhiều nơi người dân làm nhà nổi, nuôi cá bè trên sông… làm cản trở dòng chảy.

2. Giải pháp và nguyên nhân lựa chọn giải pháp

- Giải pháp chính là: “Sống chung với lũ” do phù hợp với điều kiện môi trường của cuộc sống của bà con vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Đây là giải pháp giúp khai thác, phát huy được những giá trị do lũ mang lại, đồng thời có những biện pháp thích hợp đối với sản xuất và sinh hoạt.

- Lựa chọn giải pháp này vì:

+ ĐBSCL là vùng đồng bằng còn non trẻ, nhiều vùng thấp trũng chưa bôi đắp xong, độ cao trung bình so với mực nước biển còn thấp.

+ Mỗi năm sông Mê Kông chuyển vào ĐBSCL khoảng 150 triệu tấn phù sa, góp phần bồi đắp các vùng thấp, trũng nâng cao đồng bằng và làm tăng độ phì của đất. Mùa lũ cũng là mùa khai thác, nuôi trồng thủy sản trên sông Tiền và sông Hậu mang lại hiệu quả cao, phù hợp với tập quán của người dân.

+ Giúp thích ứng với cuộc sống và sản xuất trong mùa lũ, chính quyền và nhân dân đã chủ động thay dổi cơ cấu mùa vụ, cây trồng để thu hoạch sớm, chủ động đón lũ về.

+ Tiếp tục có những biện pháp thoát lũ nhanh như khai thác dòng chảy và xây dựng các kênh thoát lũ.

Dạng phân tích

Câu 9: Dựa vào Atlat Địa lí Việt Nam và kiến thức đã học, hãy phân tích ảnh hưởng của đặc điểm địa hình của miền tự nhiên Tây Bắc và Bắc Trung Bộ đến đặc điểm sông ngòi của vùng?

Định hướng trả lời:

- Câu hỏi phân tích: trình bày và giải thích ảnh hưởng của đặc điểm địa hình TB và BTB đến đặc điểm sông ngòi.

- Phân tích các đặc điểm của địa hình như: hướng nghiêng, hướng sườn, độ cao, độ dốc, sự phân bố các dạng địa hình… có ảnh hướng tởi đặc điểm sông ngòi.

Gợi ý trả lời:

Địa hình là nhân tố rất quan trọng của tự nhiên, có ảnh hưởng quan trọng đến đặc điểm sông ngòi:

- Hướng nghiêng của địa hình (tây bắc – đông nam) và hướng núi (tây bắc – đông nam, tây - đông) có ảnh hưởng chính đến việc quy định hướng sông, làm sông ở vùng chảy theo 2 hướng chính:

+ Hướng tây bắc – đông nam: sông Đà, sông mã, sông Cả…

+ Hướng tây – đông: sông Đại, sông Bến Hải, sông Bồ…

- Địa hình có độ dốc lớn do không có địa hình chuyển tiếp (khoặc không rõ) nên độ dốc của sông ngòi cũng lớn, đặc biệt là ở BTB.

Địa hình có độ dốc lớn kết hợp với cấu trúc nham thạch cứng nên khả năng bồi đắp phù sa ở cửa sông hạn chế.

- Núi phân bố chủ yếu ở phía tây, tây bắc kết hợp với hình dáng lãnh thổ làm cho chiều dài của sông có sự phân hóa:

+ TB: sông dài, diện tích lưu vực lớn.

+ BTB: sông nhỏ, ngắn và dốc.

- Địa hình là nhân tố quan trọng làm chế độ nước sông (mùa lũ) có sự phân hóa theo không gian:

+ TB: sông có lũ từ tháng V đến tháng X, trùng với mùa mưa trên phần lớn lãnh thổ nước ta.

+ BTB: sông có lũ từ tháng VIII đến tháng XII do ảnh hưởng của dãy Trường Sơn gây ra hiệu ứng Phơn trong mùa hạ và đón gió Đông Bắc gây mưa vào mùa thu – đông.

Câu 10: Dựa vào Atlat Địa lí Việt Nam và kiến thức đã học, hãy phân tích đặc điểm sông ngòi miền Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ.

Định hướng trả lời:

- Câu hỏi phân tích: trình bày và giải thích đặc điểm sông ngòi của MB và ĐBBB.

- Phân tích đặc điểm sông ngòi: khái quát lưu vực, mạng lưới sông, hướng chảy, tổng lượng nước, lượng phù sa, chế độ nước…

Gợi ý trả lời:

* Khái quát:

- Ranh giới: Nằm ở tả ngạn sông Hồng.

- Phạm vi: phía bắc giáp Trung Quốc, phía đông và đông nam giáp Vịnh Bắc Bộ, phía tây và tây nam giáp miền Tây Bắc và Bắc Trung Bộ

* Đặc điểm sông ngòi:

- Mạng lưới sông ngòi dày đặc:

+ Trên diện tích nhỏ nhưng có nhiều hệ thống sông lớn (sông Hồng, sông Thái Bình, sông Gâm…)

+ Có nhiều phụ lưu và chi lưu, đặc biệt sông Hồng là một trong hai sông dài nhất cả nước.

-> Nguyên nhân: Do sông ngòi của miền chảy trên miền địa hình với ¾ là đồi núi dốc, lượng mưa lớn nên địa hình cắt xẻ mạnh, sông ngòi dày đặc.

- Hướng sông:

+ Hướng Tây Bắc – Đông Nam: sông Hồng, sông Thái Bình, sông Chảy…

+ Hướng vòng cung: sông Lô, sông Gâm, sông Lục Nam…

-> Nguyên nhân: Do chịu ảnh hưởng của hướng địa hình, hướng nghiêng chính là TB – ĐN, hướng núi vòng cung của các dãy núi, khối núi khư dãy cánh cung sông Gâm, Đông Triều…

- Sông ngòi có tổng lượng nước lớn: lớn nhất là hệ thống Sông Hồng: 2.640 m³/s (tại cửa sông) với tổng lượng nước chảy qua tới 83,5 tỷ m³, sông Bằng Giang – Kì Cùng 7,7 tỷ m³…

-> Nguyên nhân: Tổng lượng mưa trong năm lớn, đặc biệt Sông Hồng có nguồn cung cấp nước từ ngoài lãnh thổ nên tổng lượng nước lớn..

- Sông ngòi giàu phù sa: Sông Hồng với 120 triệu tấn phù sa/năm, 15kg phù sa/ m³ do đó sông Hồng về mùa lũ có màu đỏ - hồng.

-> Nguyên nhân: Do địa hình ¾ là đồi núi, lớp phong hóa dày, nhan thạch mềm, mất lớp phủ thực vật nên khi mưa lên dễ bị rửa trôi -> hoạt động xâm thực diễn ra nhanh ở miền đồi núi.

- Chế độ nước:

+ Mùa lũ từ tháng 6 đến tháng 9 , đỉnh lũ vào tháng 8, mùa mưa chiếm trên 70% lượng nước cả năm.

+ Mùa cạn từ tháng 10 đến tháng 5 năm sau, tháng kiệt vào tháng 3.

-> Nguyên nhân: Do chế độ nước sông chịu ảnh hưởng từ chế độ mưa, mùa mưa trùng với mùa lũ, mùa khô trùng với mùa cạn. Tháng đỉnh lũ chậm hơn so với tháng mưa nhiều là do lượng nước sông lên chậm hơn.

Câu 11: Dựa vào Atlat Địa lí Việt Nam và kiến thức đã học, hãy phân tích giá trị sông ngòi đến sự phát triển kinh tế - xã hội nước ta.

Định hướng trả lời:

- Câu hỏi phân tích: trình bày đặc điểm và rút ra kết luận về giá trị của sông ngòi đến sự phát triển kinh tế - xã hội.

- Phân tích giá trị sông dựa trên các tiêu chí về thuận lợi và khó khăn.

Gợi ý làm bài:

* Đặc điểm mạng lưới sông nước ta

- Nước ta có mạng lưới sông ngòi dày đặc: chỉ tính những con sông dài trên 10km thi cả nước có 2360 con sông. Mật độ sông là 0,6 km/km2. Sông ngòi nước ta phần lớn là sông nhỏ do lãnh thổ hẹp ngang…

- Sông ngòi nhiều nước, giàu phù sa:

+ Sông ngòi nước ta có lượng nước lớn, tổng lượng nước của tất các sông ngòi chảy trên lãnh thổ là 839 tỉ m3/năm…

+ Sông ngòi giàu phù sa: tổng lượng phù sa hàng năm của hệ thống sông ngòi trên phần lãnh thổ nước ta là khoảng 200 triệu tấn/năm..

- Thủy chế theo mùa: Chế độ dòng chảy của sông ngòi nước ta phù hợp với sự phân mùa của lượng mưa. Chế độ mưa diễn biến thất thường nên chế độ dòng chảy sông ngòi cũng thất thường: có năm mùa lũ sớm, có năm lũ muộn.

* Giá trị của sông ngòi đến sự phát triển KT – XH:

- Thuận lợi:

+ Sông bồi đắp phù sa, hình thành và mở rộng các đồng bằng:

-> ĐBSH do phù sa sông Hồng và ĐBSCL do phù sa sông Cửu Long bồi đắp là hai đồng bằng châu thổ lớn nhất nước ta.

-> Làm màu mỡ thêm đất đai tại các đồng bằng -> 2 đồng bằng này đồng thời là 2 vùng trọng điểm sản xuất lương thực thực phẩm, nơi tập trung dân cư đông đúc.

+ Mạng lưới sông dày đặc, nguồn nước phong phú:

-> cung cấp nước cho hoạt động sinh hoạt và sản xuất, đặc biệt là sản xuất lúa nước.

-> có giá trị thủy lợi: tưới nước vào mùa khô, tiêu nước vào mùa mưa cho các đồng bằng. Ngoài ra, kết hợp với mạng lưới kênh rạch ở ĐBSCL, sông ngòi còn có tác dụng thau chua rửa mặn.

-> có nguồn lợi thủy sản phong phú, tạo điều kiện cho đánh bắt và nuôi trồng trong thủy sản nước ngọt phát triển.

+ Mỗi vùng miền, sông có giá trị khác nhau:

-> ở các đồng bằng lớn có giá trị về giao thông (sông Hồng, sông Thái Bình, sông Tiền, sông Cửu Long…), du lịch (du thuyền trên sông Hương, khám phá miệt vườn ĐBSCL bằng đường sông…)…

-> ở miền núi có giá trị về thủy điện, tiềm năng thủy điện của cả nước lên đến 30 triệu KW (lớn nhất là hệ thống sông Hồng: nhà máy thủy điện sông Đà 1920 MW, Sơn La trên sông Đà 2400 MW, nhà máy thủy điện Trị An trên sông Đồng Nai 400 MW...)

- Khó khăn:

+ Số lượng sông ngắn, nhỏ và dốc lớn: giá trị kinh tế mang lại không cao (giao thông, đánh bắt và nuôi trồng thủy hải sản…)

+ Mạng lưới sông dày đặc: cần phát triển hệ thống cầu, phà lớn… nhiều vùng chưa đáp ứng được nhu cầu sử dụng của người dân.

+ Chế độ nước sông ngòi phân mùa sâu sắc gây khó khăn cho hoạt động sản xuất và sinh hoạt (lũ lụt mùa lũ, hạn hán trầm trọng mùa khô…)

2.2.2 Câu hỏi kĩ năng sử dụng bảng số liệu

Câu 12: Dựa vào bảng số liệu sau:

Bảng: Lưu lượng nước trung bình của sông Hồng (trạm Sơn Tây) và sông Mê Kông (trạm Mỹ Thuận – sông Tiền) các tháng trong năm (Đơn vị: m3/s)

Tháng

Lưu lượng nước sông

Sông Hồng (trạm Sơn Tây)

Sông Mê Kông (trạm Mỹ Thuận)

1

1318

13570

2

1100

6840

3

914

1570

4

1071

1638

5

1893

2920

6

4692

10360

7

7986

18860

8

9246

21400

9

6690

27500

10

4122

29000

11

2813

22000

12

1746

23030

a. Nhận xét chế độ nước sông của các con sông này.

b. Giải thích vì sao chế độ nước sông Cửu Long lại điều hòa hơn chế độ nước của sông Hồng?

Định hướng trả lời:

- Nhận xét dựa trên BSL đã có sẵn.

- Tìm nhân tố tác động đến chế độ nước của sông Cửu Long điều hòa hơn sông Hồng: đặc điểm lưu vực sông, địa hình lưu vực, số lượng cửa sông,…

Gợi ý làm bài:

a. Nhận xét chế độ nước sông

* Chế độ nước sông của sông Hồng và sông Cửu Long có nhiều nét tương đồng:

- Lưu lượng nước sông của sông Hồng và sông Cửu Long đều lớn, là hai con sông có lượng nước trung bình lớn nhất nước ta:

+ Sông Hồng 3632,5 m3/s

+ Sông Cửu Long 14890,7 m3/s

-> Do hai con sông này đều có nguồn cung cấp nước lớn từ ngoài lãnh thổ, diện tích lưu vực lớn, lượng mưa trong năm nhiều…

- Chế độ nước phân theo mùa: Mùa lũ và mùa cạn,

+ Sông Hồng: mùa lũ Từ tháng VI đến tháng X, mùa cạn từ tháng XI đến tháng V năm sau.

+ Sông Cửu Long: mùa lũ từ tháng VI đến tháng II năm sau, mùa cạn ngắn hơn từ tháng III đến tháng V.

-> Nguyên nhân: hai con sông đều mang đặc điểm của khu vực nhiệt đới ẩm gió mùa, lượng mưa chi phối lượng nước sông: mùa lũ trùng với mùa mưa và mùa cạn trùng với mùa khô

- Tuy nhiên, mỗi con sông lại có đặc điểm chế độ nước sông khác nhau:

+ Sông Hồng có lưu lượng nước nhỏ hơn 4,1 lần so với sông Cửu Long, mùa lũ và mùa cạn trùng với thời gian mùa mưa và mùa khô, mùa lũ từ tháng VI đến tháng X, đỉnh lũ vào tháng 8.

-> Do sông Hồng có lưu vực nhỏ hơn, mùa đông lượng mưa rất nhỏ nên lượng nước sông rất ít.

+ Sông Cửu Long có lưu lượng nước lớn nhất cả nước, mùa lũ từ tháng VI đến tháng II năm sau, mùa lũ kéo dài tới 9 tháng, đỉnh lũ vào tháng 10.

-> Do sông Cửu Long có lưu vực lớn nhất cả nước, diện tích lưu vực chảy qua 9 quốc gia trong khu vực nhiệt đới, lưu lượng nước cao, có khí hậu cận xích đạo nên lượng mưa lớn. Mùa cạn sâu sắc do ảnh hưởng lượng mưa nhỏ do gió khô nóng Tín phong Bắc bán cầu hoạt động.

b. Giải thích vì sao chế độ nước sông Cửu Long điều hòa hơn chế độ nước sông Hồng

* Sông Cửu Long:

- Lưu vực sông:

+ Có dạng hình lông chim, diện tích lưu vực lớn, độ dốc lòng sông nhỏ.

+ Biển Hồ (Cam-pu-chia) có vai trò quan trọng trong việc điều hòa nước sông.

- Địa hình thấp kết hợp với hệ thống kênh rạch chằng chịt có tác dụng phân lũ nhanh sang các khu vực xung quanh.

- Sông đổ ra biển theo nhiều cửa sông (9 cửa) khiến cho nước lũ thoát nhanh

* Sông Hồng:

- Lưu vực sông:

+ Có dạng hình nan quạt, khi lũ xảy ra thường có sự tập trung nước của dòng chính với các dòng phụ lưu gây lũ lớn.

+ Hình thái lưu vực dốc nhiều phần thượng nguồn và trung du, dốc ít ở hạ lưu, lũ sông Hồng lên nhanh nhưng rút chậm

- Rừng đầu nguồn bị chặt phá nên đã hạn chế khả năng giữ nước trong mùa mưa lũ.

- Sông đỏ ra biển chỉ bằng 3 cửa sông nên khả năng thoát nước chậm hơn so với sông Cửu Long.

Câu 13: Dựa vào bảng số liệu sau

Tháng

1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

Lượng mưa (mm)

19,5

25,5

34,5

104,2

222,0

262,8

315,7

335,2

271,9

170,1

59,9

17,8

Lưu lượng

(m3/s)

1318

1100

914

1071

1893

4692

7986

9246

6690

4122

2813

1746

Nhận xét về mối quan hệ giữa mùa mưa và mùa lũ của lưu vực sông Hồng

Định hướng trả lời:

- Dựa vào BSL đưa ra nhận xét về mối quan hệ giữa đặc điểm mùa mưa và mùa lũ: chế độ mưa ảnh hưởng sâu sắc đến chế độ lũ sông Hồng

Gợi ý làm bài:

Chế độ mưa và chế độ dòng chảy của lưu vực sông Hồng là biểu hiện của câu nói “sông ngòi là hàm số của khí hậu”.

- Chế độ mưa:

+ Có tổng lượng mưa tương đối lớn là 1839,1 mm/năm

+ Chia thành 2 mùa rõ rêt:

○ Mùa mưa kéo dài từ tháng V đến tháng X (lượng mưa chiếm khoảng 60% lượng mưa cả năm). Tháng mưa nhiều nhất là tháng VIII (335,2mm),

○ Mùa khô kéo dài từ tháng XI đến tháng IV năm sau, tháng mưa ít nhất là tháng 12 (17,8mm).

- Chế độ dòng chảy:

+ Lưu lượng nước trung bình khá lớn 3632,5 m3/s.

+ Chia thành 2 mùa nước:

○ Mùa lũ kéo dài từ thang VI đến tháng X (những tháng này có lưu lượng dòng chảy lớn hơn 1/12 lưu lượng dòng chảy của năm). Đỉnh lũ vào tháng 8 (9246 m3/s).

○ Mùa cạn từ tháng XI đến tháng V năm sau, tháng có lưu lượng dòng chảy thấp nhất là tháng 3 (914 m3/s).

-> Chế độ mưa và chế độ dòng chảy của lưu vực sông Hồng tương đối trùng nhau. Có thể thấy chế độ dòng chảy ảnh hưởng sâu sắc của chế độ mưa. Mùa lũ trùng với mùa mưa, mùa cạn trùng với mùa khô. Tuy nhiên mùa lũ đến chậm hơn mùa mưa 1 tháng do lượng nước sông lên từ từ sau khi vào mùa mưa.

Câu 14: Cho bảng số liệu sau

Lưu lượng dòng chảy của sông Hồng và sông Thu Bồn(m3/s)

Tháng

1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

Sông Hồng

1318

1100

914

1071

1893

4692

7986

9246

6690

4122

2813

1746

Sông Thu Bồn

202

115

75,1

58,2

91,4

120

88,6

69,6

151

519

954

448

Nhận xét và giải thích chế độ nước sông của hai con sông trên.

Định hướng trả lời:

- Nhận xét đặc điểm chế độ nước sông: Lưu lượng nước trung bình, chế độ nước sông theo mùa, tháng đỉnh lũ…

- Giải thích dựa trên tiêu chí tác động đến chế độ nước sông: đặc điểm lưu vực, diện tích lưu vực, chế độ mưa…

Gợi ý làm bài

a. Nhận xét:

Sông Hồng và sông Thu Bồn có lưu lượng dòng chảy năm khá khác nhau do nằm ở các khu vực khí hậu khác nhau.

- Sông Hồng:

+ Có lưu lượng dòng chảy trung bình cả năm khá lớn 3632,5 m3/s.

+ Mùa lũ kéo dài từ tháng VI đến tháng X, dài 5 tháng. Lưu lượng nước mùa lũ chiếm 75,1% lưu lượng dòng chảy cả năm.

+ Mùa cạn kéo dài từ tháng XI đến V năm sau, kéo dài 7 tháng. Lưu lượng nước mùa cạn chiếm 24,9% lưu lượng dòng chảy cả năm.

+ Lưu lượng nước tháng cao nhất (tháng VIII- 9246 m3/s) gấp 10,2 lần tháng thấp nhất (tháng III-914 m3/s)

+ Chế độ nước sông trùng với chế độ mưa, mùa lũ trùng với mùa mưa, mùa cạn trùng với mùa khô.

- Sông Thu Bồn

+ Có lưu lượng dòng chảy trung bình cả năm nhỏ 208,3 m3/s.

+ Mùa lũ từ tháng X đến tháng I năm sau, kéo dài 4 tháng. Lưu lượng nước mùa lũ chiếm tới 89,4% lưu lượng dòng chảy cả năm.

+ Mùa cạn từ tháng II đến tháng IX, kéo dài 8 tháng. Lưu lượng nước các tháng mùa cạn chiếm 10,6% lưu lượng dòng chảy cả năm.

+ Lưu lượng tháng cao nhất (tháng XI-954 m3/s) gấp 16,7 lần tháng thấp nhất (tháng IV-58,2 m3/s)

+ Chế độ nước sông thất thường, có sự chênh lệch lớn giữa mùa lũ và mùa cạn. Mùa lũ trùng với mùa mưa (thu đông). Tháng 6 có lũ tiểu mãn.

b. Giải thích:

- Sông Hồng có lưu lượng nước lớn hơn sông Thu Bồn do sông có lưu vực lớn, dạng nan quạt có nhiều phụ lưu nên nhận nhiều nước… Sông Hồng có lũ vào mùa hè do ảnh hưởng của dải hội tụ nhiệt đới nên lượng mưa lớn.

- Sông Thu Bồn có diện tích lưu vực nhỏ, sông ngắn, dốc, ít phụ lưu, lượng mưa trong năm thấp hơn nên nhận được ít nước… Sông có lũ vào thu đông do sự dịch chuyển dần vào nam của dải hội tụ nhiệt đới gây mưa vào thu đông và có lũ tiểu mãn do ảnh hưởng của những cơn mưa dông nhiệt đầu hè.

KẾT LUẬN

1. Chuyên đề đã đưa ra các dạng câu hỏi, bài tập thường gặp về nội dung phần sông ngòi Việt Nam và đưa ra hướng giải quyết các dạng câu hỏi, bài tập này.

2. Đề xuất kiến nghị

* Đối với giáo viên:

- Trong quá trình giảng dạy về phần sông ngòi Việt Nam, GV cần có những liên hệ để HS dễ hình dung liên tưởng. Từ đó, khi nghiên cứu về nội dung bồi dưỡng chuyên sâu, các em có thể nhanh chóng tiếp cận với kiến thức.

- Đưa ra nhiều dạng bài với nhiều cấp tư duy, hướng dẫn học sinh các cách thức làm bài, cách vận dụng kiến thức, các mối quan hệ tự nhiên để học sinh có thể nắm bắt được kiến thức dễ dàng và tư duy lô gic.

- Thường xuyên trao đổi kinh nghiệm và sáng kiến với đồng nghiệp để phát triển mảng đào tạo HSG.

* Đối với học sinh

- Cần phải biết sử dụng thành thạo Atlat ĐLVN để làm việc thật tốt trong quá trình nghiên cứu.

- Nắm rõ kiến thức nền và linh hoạt trong việc huy động kiến thức trong quá trình học tập. Vận dụng kiến thức vào làm bài tập và liên hệ với thực tế.


Tập tin đính kèm

Trình duyệt không hỗ trợ iframe.

Tổng số điểm của bài viết là: 48 trong 11 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Mục lục

  • 1 Phân loại
    • 1.1 Phân loại theo bậc sông
    • 1.2 Theo địa hình
  • 2 Địa hình
    • 2.1 Luồng dưới bề mặt
    • 2.2 Tính lâu dài của dòng chảy
  • 3 Danh sách các sông
    • 3.1 10 sông dài nhất thế giới
    • 3.2 Những sông nổi tiếng
  • 4 Hình ảnh
  • 5 Đọc thêm
  • 6 Chú thích
  • 7 Liên kết ngoài