Vì sao mỹ viện trợ cho tây âu

Mĩ viện trợ cho các nước Tây Âu thông qua Kế hoạch Mácsan [1947] nhằm mục đích nào sau đây?


Câu 66592 Thông hiểu

Mĩ viện trợ cho các nước Tây Âu thông qua Kế hoạch Mácsan [1947] nhằm mục đích nào sau đây?


Đáp án đúng: a

Phương pháp giải

Xem lại tình hình Tây Âu sau Chiến tranh thế giới thứ hai, suy luận.

Tây Âu từ năm 1945 đến 2000 --- Xem chi tiết
...

Mĩ viện trợ cho các nước Tây Âu thông qua Kế hoạch Mácsan [1947] nhằm mục đích nào sau đây?

A.Thúc đẩy tiến trình hình thành của Liên minh châu Âu.

B.Giúp các nước Tây Âu phát triển kinh tế để cạnh tranh với Trung Quốc.

C.Lôi kéo đồng minh để củng cố trật tự thế giới “một cực”.

D.Lôi kéo đồng minh để ngăn chặn ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội.

Đáp án chính xác
Xem lời giải

Mục lục

Trước khi có Kế hoạch MarshallSửa đổi

Bối cảnh tại châu ÂuSửa đổi

Các tòa nhà đổ nát sau cuộc không kích Hamburg

Phần lớn châu Âu bị tàn phá nặng nề với hàng triệu người chết và bị thương sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Chiến sự tàn phá trên toàn lục địa, trải rộng trên một diện tích còn lớn hơn Chiến tranh thế giới thứ nhất. Các cuộc ném bom dai dẳng cũng đồng nghĩa với việc phần lớn các thành phố lớn đều bị tàn phá nặng nề, với các khu công nghiệp bị đánh phá nghiêm trọng. Rất nhiều thành phố lớn, bao gồm cả Warszawa và Berlin hoàn toàn đổ nát, các thành phố khác, như Luân Đôn và Rotterdam, thì bị thương tích nặng nề. Hạ tầng cơ sở kinh tế điêu tàn, hàng triệu người trở thành vô gia cư. Mặc dù nạn đói ở Hà Lan năm 1944 đã dịu đi cùng với nguồn viện trợ, nhưng sự hoang tàn của ngành nông nghiệp cũng khiến cho nạn đói xảy ra tại một số vùng trên lục địa, lại càng trở nên nghiêm trọng vì mùa đông đặc biệt khắc nghiệt năm 1946–1947 tại vùng tây bắc châu Âu. Đặc biệt hạ tầng giao thông bị phá hoại nghiêm trọng, vì đường sắt, cầu cống, đường sá là các mục tiêu không kích quan trọng, trong khi phần lớn các đoàn tàu thương mại đã bị đánh chìm. Mặc dù phần lớn các thị trấn nhỏ và làng mạc ở Tây Âu không phải chịu cảnh tàn phá ghê gớm như vậy, nhưng việc hệ thống giao thông bị tiêu hủy cũng làm cho họ trở nên cô lập về mặt kinh tế. Bất kỳ vấn đề nào trên đây đều không dễ để giải quyết, vì phần lớn các quốc gia tham chiến đều đã kiệt quệ về tài chính.

Từ sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, nền kinh tế châu Âu đã bị tổn thất nặng nề và cuộc khủng hoảng sau thời kỳ thế chiến, kéo dài đến tận thập niên 1920, đã dẫn đến sự bất ổn và suy thoái trên toàn cầu. Nước Mỹ, mặc dù lúc đó đang theo chủ nghĩa biệt lập, cũng cố gắng thúc đẩy tăng trưởng tại châu Âu, chủ yếu là thông qua sự tham gia của các ngân hàng Mỹ. Khi Đức không thể trả nổi các khoản bồi hoàn chiến phí, người Mỹ can thiệp bằng cách nới rộng các khoản vay cấp cho Đức, một món nợ mà người Mỹ không đòi lại được khi họ tham gia Chiến tranh thế giới thứ hai vào năm 1941.

Tại Washington, người ta nhất trí là những sai lầm sau Chiến tranh thế giới thứ nhất không được phép tái diễn. Bộ ngoại giao dưới thời Tổng thống Harry S. Truman dồn tâm sức theo đuổi các hoạt động đối ngoại, nhưng Quốc hội thì phần nào tỏ ra không quan tâm. Ban đầu, người ta hy vọng là chỉ cần không nhiều tiền lắm cũng đủ để tái thiết châu Âu; và Anh, Pháp, với sự giúp sức từ các thuộc địa của họ, sẽ nhanh chóng khôi phục nền kinh tế của họ. Tuy nhiên, tới năm 1947 vẫn chỉ có rất ít tiến bộ. Và mùa đông giá lạnh liên tục trong mấy năm làm tình hình vốn đã xấu lại càng xấu hơn. Nền kinh tế châu Âu dường như không phát triển mạnh với tỷ lệ thất nghiệp cao, lương thực thiếu thốn, dẫn đến các cuộc đình công và bất ổn trong một số quốc gia. Năm 1947, nền kinh tế châu Âu vẫn còn ở dưới mức trước chiến tranh, và hầu như không có dấu hiệu tăng trưởng. Sản lượng nông nghiệp ở khoảng 83% mức năm 1938, sản xuất công nghiệp là 88%, xuất khẩu chỉ ở mức 59%.[3]

Sự thiếu hụt lương thực là một trong những vấn đề trầm trọng nhất. Trước chiến tranh, Tây Âu phụ thuộc vào nguồn lương thực thặng dư từ Đông Âu, nhưng những nguồn đó đã bị chặn lại phía sau Bức màn sắt. Tình hình trở nên đặc biệt tồi tệ tại Đức, nơi mà theo Alan S. Milward trong năm 1946–47 lượng kilocalorie trung bình trên đầu người chỉ là 1.800, không đủ đảm bảo sức khỏe về lâu về dài.[4] Các nguồn khác cho biết lượng kilocalorie trong các năm đó thay đổi, có thể thấp đến mức 1.000 và 1.500. William Clayton thông báo cho Washington là "hàng triệu người đang từ từ chết đói".[5] Một nhân tố cốt yếu khác cho nền kinh tế nói chung là sự thiếu hụt than đá, càng trở nên trầm trọng vì mùa đông lạnh lẽo 1946–47. Tại Đức, các căn hộ không được sưởi ấm, khiến hàng trăm người chết cóng. Tại Anh, tình hình không đến nỗi tồi tệ như vậy, nhưng nhu cầu dân chúng khiến cho sản xuất công nghiệp bị đình trệ hoàn toàn. Một trong những động cơ thúc đẩy kế hoạch trên là lòng nhân đạo muốn chấm dứt những thảm cảnh đó.

Nạn đói mùa đông năm 1947, hàng ngàn người phản đối ở Tây Đức vì thiếu hụt lương thực [ngày 31 tháng 3 năm 1947]. Tấm bảng ghi: "Chúng tôi muốn có than, chúng tôi muốn có bánh mì"

Đức nhận được nhiều đề nghị từ các quốc gia Tây Âu đổi lương thực lấy than đá và sắt thép tối cần thiết khi đó. Nhưng cả Ý lẫn Hà Lan đều không thể được bán rau quả mà trước đó họ vẫn bán ở Đức, với hệ quả là Hà Lan phải tiêu hủy một phần đáng kể vụ thu hoạch của mình. Đan Mạch muốn đổi 150 tấn mỡ lợn một tháng, Thổ Nhĩ Kỳ muốn đổi hạt dẻ; Na Uy muốn đổi cá và dầu cá, Thụy Điển muốn đổi một lượng lớn mỡ. Các quốc gia Đồng Minh, trái lại, không muốn để người Đức được mua bán.[6] Trước tình hình đó, Tướng Lucius D. Clay và Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân [Joint Chiefs of Staff] ngày càng tỏ ra lo lắng trước sự gia tăng ảnh hưởng của chủ nghĩa cộng sản tại Đức, cũng như tình hình thất bại của các nền kinh tế châu Âu không thể phục hồi mà không có nền công nghiệp Đức, là nền móng mà trước kia họ phải dựa vào. Mùa hè năm 1947, Ngoại trưởng, Tướng George Marshall, dựa vào lý do "cơ sở an ninh quốc gia", cuối cùng đã thuyết phục được Tổng thống Harry S. Truman bãi bỏ chỉ thị JCS 1067 trừng phạt Đức, thay vào đó bằng chỉ thị JCS 1779.[7] Tháng 7 năm 1947 chỉ thị JCS 1067, vốn vẫn định hướng cho lực lượng chiếm đóng Mỹ tại Đức nhằm "... không thực hiện bất kỳ bước nào để tiến tới khôi phục nền kinh tế Đức", được thay thế bởi chỉ thị JCS 1779, nhấn mạnh "Một châu Âu trật tự, phồn vinh đòi hỏi phải có sự đóng góp kinh tế từ một nước Đức ổn định và hiệu quả".[8] Chỉ thị JCS 1067 đã có hiệu lực trong vòng hơn hai năm. Những hạn chế áp đặt lên nền sản xuất công nghiệp của Đức phần nào trở nên thông thoáng hơn, cho phép sản xuất thép tăng lên từ mức 25% trước chiến tranh[9][10] tới định mức 50% năng suất trước thế chiến.[11]

Nền công nghiệp Đức tiếp tục bị dỡ bỏ, và năm 1949 Thủ tướng Đức Konrad Adenauer viết thư cho phe Đồng Minh, yêu cầu chấm dứt việc đó, viện dẫn sự trái khoáy trong việc khuyến khích phát triển công nghiệp và việc phá bỏ các nhà máy, cũng như sự mất lòng dân từ chính sách đó.[12] Sự ủng hộ cho việc dỡ bỏ các nhà máy lúc này tới chủ yếu từ phía Pháp, và Thỏa thuận Petersberg tháng 11 năm 1949 cho phép giảm tốc độ phá dỡ đi rất nhiều, mặc dù việc tháo dỡ các nhà máy nhỏ tiếp tục cho tới năm 1951.[13] Kế hoạch "định mức công nghiệp" đầu tiên, được phe Đồng Minh ký ngày 9 tháng 3 năm 1946, tuyên bố nền công nghiệp nặng của Đức phải giảm xuống 50% mức năm 1938 bằng cách phá bỏ 1.500 nhà máy có tên trong danh sách.[14] Tháng 1 năm 1946, Hội đồng kiểm soát Đồng Minh áp đặt cơ sở cho nền kinh tế Đức bằng cách đặt hạn mức cho sản xuất thép của Đức vào khoảng 5,8 triệu tấn một năm, bằng với 25% mức trước chiến tranh.[9] Nước Anh, chiếm đóng những vùng sản xuất thép chính, đòi phải giới hạn sản lượng hơn nữa bằng cách đặt một tối đa là 12 triệu tấn thép một năm, nhưng cuối cùng cũng phải chịu theo ý Mỹ, Pháp và Liên Xô [vốn định đặt mức giới hạn 3 triệu tấn trước đó]. Các nhà máy thép thừa ra sẽ phải bị phá bỏ. Nước Đức bị đẩy xuống mức sống khi cuộc Đại khủng hoảng lên tới đỉnh điểm năm 1932[10] Sản xuất ô tô bị định ở 10% mức trước thời chiến....[15]

Kế hoạch "Định mức công nghiệp Đức" được tiếp nối bởi một số kế hoạch mới hơn, kế hoạch cuối cùng được ký vào năm 1949. Tới năm 1950, sau khi thực tế đã hoàn thành các kế hoạch "định mức công nghiệp", người ta dỡ bỏ 706 nhà máy ở Tây Đức và sản lượng thép bị giảm xuống còn 6,7 triệu tấn.[16] Vladimir Petrov nhận xét là phe Đồng Minh đã "trì hoãn trong vài năm sự phục hồi kinh tế của lục địa châu Âu bị chiến tranh tàn phá, sự phục hồi mà cuối cùng Mỹ phải tốn hàng tỷ đô la vào đó".[17] Năm 1951, Tây Đức chấp thuận gia nhập Cộng đồng Than Thép châu Âu [ECSC] vào năm sau. Điều đó có nghĩa là một số hạn chế về định lượng và sản lượng thực tế do Ủy ban quốc tế giám sát vùng Ruhr được dỡ bỏ, và vai trò của ủy ban này được tiếp quản bởi ECSC.[18]

Bối cảnh chính trị tại Hoa KỳSửa đổi

Cường quốc duy nhất mà cơ sở hạ tầng không bị thiệt hại trong thế chiến 2 là Hoa Kỳ. Họ tham chiến muộn hơn hầu hết các quốc gia châu Âu, và chỉ bị những tàn phá rất khiêm tốn trên lãnh thổ của mình. Số lượng dự trữ vàng của Hoa Kỳ vẫn còn nguyên, cũng như cơ sở hạ tầng nông nghiệp và sản xuất, với nền kinh tế lành mạnh. Những năm chiến tranh mang lại thời kỳ phát triển kinh tế mạnh mẽ nhất trong lịch sử, với các nhà máy của Mỹ sản xuất hàng hóa phục vụ cho cả nhu cầu vật tư chiến tranh của Mỹ lẫn đồng minh. Sau chiến tranh, các nhà máy này được nhanh chóng chuyển đổi sang sản xuất vật liệu tiêu dùng, và sự khan hiếm trong chiến tranh được thay thế bởi sự bùng nổ mức tiêu thụ hàng hóa. Sức khỏe về lâu dài của nền kinh tế Mỹ tuy nhiên phụ thuộc vào thương mại, vì để duy trì sự phồn thịnh nó cần xuất khẩu hàng hóa làm ra. Viện trợ từ Kế hoạch Marshall phần lớn sẽ được châu Âu sử dụng để mua vật tư cũng như hàng hóa sản xuất tại Mỹ.

Một động cơ quan trọng cho nước Mỹ, và cũng là một sự khác biệt cơ bản so với thời kỳ hậu Chiến tranh thế giới thứ nhất là sự bắt đầu Chiến tranh Lạnh. Một số quan chức trong chính phủ Mỹ ngày càng tỏ ra nghi ngờ các hoạt động của Liên Xô. George Kennan, một trong số các lãnh đạo trong việc phát triển kế hoạch, đã dự đoán về sự hình thành thế giới hai cực. Với ông, Kế hoạch Marshall là con cờ chủ đạo của học thuyết "phong tỏa" [containment].[19] Cũng đáng lưu ý là Kế hoạch Marshall được khởi xướng khi liên minh thời chiến vẫn còn phần nào đoàn kết, Chiến tranh Lạnh chưa bắt đầu và, đối với phần lớn những người hoạch định Kế hoạch Marshall, sự lo ngại Liên Xô không phải là mối lo chủ yếu như trong những năm tiếp theo.

Dù vậy, sức mạnh và sự thu hút của các đảng cộng sản bản địa tại chính các quốc gia Tây Âu sở tại khiến Hoa Kỳ cũng phải lo ngại. Tại cả Pháp và Ý, sự nghèo khổ thời hậu chiến như tiếp thêm sinh lực cho các đảng cộng sản, vốn đã đóng vai trò trung tâm cho phong trào kháng chiến trước đó. Các đảng này giành được thắng lợi quan trọng trong các cuộc bầu cử sau thế chiến, với Đảng Cộng sản Pháp trở thành chính đảng lớn nhất nước Pháp. Mặc dù ngày nay các sử gia coi mối nguy Pháp và Ý rơi vào tay đảng cộng sản là chuyện xa vời,[20] nhưng nó đã được coi là mối đe dọa thực tiễn với các nhà hoạch định chính sách Mỹ lúc đó. Chính phủ Mỹ dưới thời Harry S. Truman bắt đầu tin vào khả năng này vào năm 1946, đặc biệt với bàn diễn văn "Iron Curtain" [Bức màn sắt] của Churchill, đọc trước sự có mặt của Truman. Trong tâm trí họ, Hoa Kỳ cần phải xác định lập trường của họ trên trường quốc tế, nếu không họ sẽ mất đi sự tín nhiệm. Sự trỗi dậy của học thuyết "phong tỏa" lập luận rằng Hoa Kỳ cần phải giúp đỡ thật nhiều cho các chính phủ chống cộng sản để ngăn chặn sự mở rộng tầm ảnh hưởng của Liên Xô. Người ta cũng hy vọng là các quốc gia Đông Âu cũng sẽ gia nhập kế hoạch này, và rút khỏi khối Xô viết đang nổi lên.

Thậm chí từ trước khi có Kế hoạch Marshall, Hoa Kỳ đã gửi một lượng lớn viện trợ để giúp châu Âu hồi phục. Khoảng 9 tỷ đô la đã được sử dụng trong khoảng thời gian từ năm 1945 tới 1947. Phần lớn số viện trợ này là viện trợ gián tiếp, đến từ dạng thỏa thuận lend-lease liên tiếp, và thông qua nỗ lực của binh sĩ Mỹ sửa chữa hạ tầng cơ sở cũng như giúp người tị nạn. Một số các thỏa thuận hỗ trợ song phương cũng được ký kết, mà quan trọng nhất trong số đó có lẽ là việc hứa hẹn giúp đỡ quân sự cho Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ theo Học thuyết Truman. Tổ chức Liên Hợp Quốc khi đó mới ra đời cũng tiến hành một loạt các hoạt động cứu trợ nhân đạo, tài trợ hoàn toàn bởi Hoa Kỳ. Các nỗ lực đó có tác động quan trọng, nhưng thiếu tính chất tổ chức trung tâm và thiếu kế hoạch nên không thành công trong việc đáp ứng nhiều nhu cầu căn bản của châu Âu.[21] Từ năm 1943, Ủy ban Phục hồi và Cứu trợ Liên hiệp quốc [United Nations Relief and Rehabilitation Administration – UNRRA] đã được thành lập để cung cấp viện trợ cho các vùng đất được giải phóng từ phe Trục sau Chiến tranh thế giới thứ hai. UNRRA cung cấp hàng tỷ đô la trong các khoản viện trợ, và giúp được khoảng 8 triệu người tị nạn. Tổ chức này dừng hoạt động tại các trại cho người tị nạn vào năm 1947 tại châu Âu, vì dự trù Kế hoạch Marshall sẽ thay thế nó. Nhiều hoạt động của tổ chức này được chuyển giao cho các cơ sở Liên Hợp Quốc khác.

Trả lời câu hỏi Sử 9 Bài 10 trang 42

[trang 42 sgk Lịch Sử 9]:-Những nét nổi bật nhất của tình hình các nước Tây Âu từ sau năm 1945 là gì?

Trả lời:

- 16 nước Tây Âu phải nhận viện trợ của Mĩ để phục hồi nền kinh tế.

- Giai cấp tư sản cầm quyền tìm cách thu hẹp các quyền tự do dân chủ, ngăn cản phong trào công nhân và phong trào dân chủ.

- Những năm đầu sau chiến tranh, nhiều nước Tây Âu đã tiến hành các cuộc chiến tranh xâm lược trở lại nhằm khôi phục ách thống trị đối với các thuộc địa trước đây.

- Các nước Tây Âu đã tham gia khối quân sự Bắc Đại Tây Dương [NATO]. Chạy đua vũ trang nhằm chốn Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa.

- Nước Đức bị phân chia làm hai: Cộng hòa Liên bang Đức và Cộng hòa Dân chủ Đức [1949]. Mĩ, Anh, Pháp dốc sức viện trợ cho Cộng hòa Liên bang Đức. Nhờ đó, nền kinh tế Cộng hòa Liên bang Đức phục hồi và phát triển nhanh chóng vươn lên đứng thứ ba trong thế giới tư bản chủ nghĩa. Ngày 3-10-1990, nước Đức thống nhất, trở thành quốc gia có tiềm lực kinh tế, quân sự mạnh nhất Tây Âu.

[trang 43 sgk Lịch Sử 9]:-Hãy xác định trên bản đồ châu Âu sáu nước đầu tiên của EU.

Trả lời:

6 nước đầu tiên của EU là: CHLB Đức, Pháp, Bỉ, I-ta-li-a, Hà Lan, Luc-xăm-bua.

Câu 1 [trang 43 sgk Sử 9]:Hãy cho biết những mốc thời gian thành lập các tổ chức liên kết kinh tế ở khu vực Tây Âu.

Lời giải:

Khởi đầu là sự ra đời của “cộng đồng than, thép Châu Âu” vào tháng 4 – 1951 gồm sáu nước: Pháp, Đức, Ý, Bỉ, Hà Lan, lúc – xăm – bua.

Tháng 3 – 1957 sáu nước trên cùng nhau thành lập “ cộng đồng năng lượng nguyên tử Châu Âu” rồi “ cộng đồng kinh tế châu Âu”. Tháng 7 – 1967 cộng đồng trên sáp nhập với nhau thành cộng đồng châu Âu. Tháng 12 – 1991. Hội nghị Ma – xtrích quyết định cộng đồng châu Âu mang tên gọi mới là Liên minh Châu Âu. Liên minh Châu Âu là 1 liên minh kinh tế - chính trị lớn nhất thế giới, trở thành 1 trong 3 trung tâm kinh tế thế giới. 1999, số nước thành viên của EU là 15 và đến năm 2004 là 25 nước. I – an – ta [ liên xô] 4 đến này 11 – 2 – 1945. phân chia khu vực ảnh hưởng giữa 2 cường quốc liên xô và Mĩ. Liên xô dông nước Đức và Tây Âu thuộc ảnh hưởng của Mĩ, Anh trật tự 2 cực I – an – ta do liên xô và Mĩ đứng đầu mỗi cực.

Câu 2 [trang 43 sgk Sử 9]:Vì sao các nước Tây Âu có xu hướng liên kết với nhau?

Lời giải:

- Các nước Tây Âu có chung nền văn minh, có nền kinh tế không cách biệt nhau lắm và từ lâu đã liên hệ mật thiết với nhau. Sự hợp tác là cần thiết nhằm mở rộng thị trường, giúp các nước Tây Âu tin cậy nhau hơn về chính trị, khắc phục những nghi kị, chia rẽ đã xảy ra nhiểu lần trong lịch sử.

- Từ năm 1950, sau khi phục hồi, nền kinh tế bắt đầu phát triển nhanh, các nước Tây Âu muốn thoát dần sự lệ thuộc Mĩ. Nếu đứng riêng lẻ, các nước Tây Âu không thể đọ sức với Mĩ, họ cần liên kết để cạnh tranh với các nước ngoài khu vực.

Bài tập 1 trang 32 VBT Lịch Sử 9:Sau chiến tranh thế giới thứ hai, nền kinh tế các nước Tây Âu được phục hồi nhưng ngày càng lệ thuộc vào Mĩ. Nhận định đó đúng hay sai?

Lời giải:

- Nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó: Các nước Tây Âu muốn nhận được viện trợ của Mĩ theo “kế hoạch Mac-san” để khôi phục nền kinh tế, thì buộc phải tuân theo những điều kiện do Mĩ đặt ra, như: không được tiến hành quốc hữu hóa xí nghiệp; hạ thuế quan đối với hàng hóa của Mĩ; gạt bỏ những người cộng sản ra khỏi chính phủ,... → Các nước Tây Âu ngày càng lệ thuộc vào Mĩ.

Bài tập 2 trang 32 VBT Lịch Sử 9:Sau khi củng cố được thế lực, giai cấp tư sản cầm quyền ở các nước Tây Âu đã thực hiện những chính sách gì? Đánh dấu X vào ô trống trước ý trả lời đúng.

Lời giải:

xHạn chế các quyền tự do dân chủ, xóa bỏ các cải cách tiến bộ, ngăn cản các phong trào công nhân và phong trào dân chủ.
xTiến hành các cuộc chiến tranh xâm lược, nhằm khôi phục ách thống trị đối với các nước thuộc địa.

Bài tập 3 trang 33 VBT Lịch Sử 9:Kẻ các mũi tên từ cột A [thời gian] sang cột B [sự kiện] sao cho đúng.

Lời giải:

Bài tập 4 trang 33 VBT Lịch Sử 9:Em hãy điền vào bảng sau đây tên các tổ chức liên kết kinh tế ở Tây Âu cho phù hợp.

Lời giải:

Thời gian thành lậpTên gọi các tổ chức liên kết kinh tế
Tháng 4/1951- Cộng đồng than thép châu Âu
Tháng 3/1957

- Cộng đồng năng lượng nguyên tử châu Âu

- Cộng đồng kinh tế châu âu

Tháng 7/1967- Cộng đồng châu Âu
Năm 1991- Liên minh châu Âu

Bài tập 5 trang 33-34 VBT Lịch Sử 9:

Lời giải:

a.Hội nghị cấp cao các nước EC [họp tháng 12/1991] được tổ chức ở nước nào? Đánh dấu X vào ô trống trước ý trả lời đúng.

PhápĐứcxHà Lan
BỉItaliaLúc-xăm-bua

b.Em hãy cho biết những quyết định quan trọng của hội nghị này là gì?

- Các quyết định quan trọng của hội nghị Ma-xtrich:

+ Xây dựng một thị trường nội địa châu Âu với một liên minh kinh tế và tiền tệ châu Âu, có một đồng tiền chung duy nhất [đồng Euro]

+ Xây dựng một liên minh chính trị, mở rộng sang liên kết về chính sách đối ngoại và an ninh, tiến tới một nhà nước chung châu Âu.

+ Đổi tên Cộng đồng châu Âu thành Liên minh Châu Âu.

Bài tập 6 trang 34 VBT Lịch Sử 9:Tính đến năm 2004, Liên minh châu Âu [EU] có bao nhiêu nước thành viên? Khoanh tròn chữ cái trước ý trả lời đúng

A.6 nước.

B.11 nước.

C.15 nước

D.25 nước

E.27 nước.

Lời giải:

D.25 nước

Video liên quan

Chủ Đề