Mô tả tóm tắt đặc tính của hàng hóa năm 2024

  • 1. mở đầu.......................................................................................................................... 2 B. Nội dung.................................................................................................................................3 I. Khái niệm hàng hóa và hai thuộc tính cơ bản của nó........................................................... 3 1. Khái niệm hàng hóa ........................................................................................................... 3 2. Hai thuộc tính cơ bản của hàng hóa ........................................................................................ 3 a. Giá trị sử dụng................................................................................................................... 3 b. Giá trị............................................................................................................................... 4 c. Mối quan hệ giữa giá trị và gia trị sử dụng:.......................................................................... 5 II. Giải pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh cho hàng hóa Việt Nam...................................... 6 1. Đặc điểm hàng hóa Việt Nam hiện nay ............................................................................ 6 2. Thực trạng hàng hóa Việt Nam hiện nay ......................................................................... 8 3. Giải pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam................................ 12 a. Tăng sức cạnh tranh của hàng hóa................................................................................. 12 b. Vĩ Mô:........................................................................................................................ 13 c. Vi Mô ......................................................................................................................... 13 d. Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh về giá của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay.............................................................................................................................. 13 Giải pháp nhằm nâng cao năng suất lao động của các doanh nghiệp ................................ 14 Giải pháp nhằm tăng mức độ phức tạp trong lao động .................................................... 14 Chính sách của nhà nước.............................................................................................. 15 Một số giải pháp khác .................................................................................................. 16 C. KẾT LUẬN......................................................................................................................... 17
  • 2. đầu Lịch sử phát triển của nền sản xuất xã hội đã và đang trải qua hai kiểu tổ chức kinh tế, đó là sản xuất tự cấp tự túc và sản xuất hàng hoá. Sản xuất hàng hoá ra đời là bước ngoặt căn bản trong lịch sử phát triển của lịch sử loài người, đưa loài người thoát khỏi tình trạng “mông muội”, xoá bỏ nền kinh tế tự nhiên, phát triển nhanh chóng lực lượng sản xuất và nâng cao hiệu quả kinh tế của xã hội. Với những thuộc tính của mình hàng hoá giữ một vai trò quan trọng trong sản xuất và lưu thông hàng hoá là một “tế bào kinh tế” của xã hội tư bản. “ Có nền kinh tế hàng hoá thì tất nhiên tồn tại cạnh tranh cạnh tranh là quy luật bắt buộc của nền kinh tế hàng hoá” vì vậy việc nghiên cứu về hai thuộc tính của hàng hóa và vận dụng lý thuyết về hai thuộc tính hàng hóa để đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh cho hàng hóa là một việc quan trong có ý nghĩa lí luận và thực tiễn đối với quá trình cạnh tranh. Đặc biệt việc nắm vững những lí luận về lượng giá trị của hàng hoá có vai trò quan trọng góp phàn vận dụng một cách hiệu quả vào quá trình nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp hiện nay nói chung và các doanh nghiệp Việt Nam nói riêng. Trong quá trình nghiên cứu do kiến thức, khả năng còn hạn hẹp chúng em không thể tránh khỏi những sai sót, chúng em kính mong cô và các bạn sẽ gúp đỡ chúng em có được sự hiểu biết đầy đủ nhất. Chúng em xin chân thành cảm ơn.
  • 3. Khái niệm hàng hóa và hai thuộc tính cơ bản của nó 1. Khái niệm hàng hóa Lịch sử phát triển của nền sản xuất xã hội đã và đang trải qua hai kiểu tổ chức kinh tế, đó là sản xuất tự cấp tự túc và sản xuất hàng hoá. Trong nền sản xuất hàng hoá tồn tại một phạm trù lịch sử đó chính là hàng hoá. Hàng hoá là sản phẩm của lao động, có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con người thông qua trao đổi, mua bán. Có rất nhiều tiêu thức để phân chia các loại hàng hoá như: hàng hoá thông thường, hàng hoá đặc biệt, hàng hoá hữu hình, hàng hoá vô hình, hàng hoá tư nhân, hàng hoá công cộng… - Dạng hữu hình như: sắt, thép, lương thực, thực phẩm…. - Dạng vô hình như những dịch vụ thương mại, vận tải hay dịch vụ của giáo viên, bác sĩ, nghệ sĩ… Hàng hoá có thể cho một cá nhân sử dụng hoặc nhiều người cùng sử dụng. Từ khái niệm trên cho thấy: Hàng hoá là một phạm trù lịch sử, nó chỉ xuất hiện khi có nền sản xuất hàng hoá, đồng thời sản phẩm lao động mang hình thái hàng hoá khi nó là đối tượng mua bán trên thị trường. Karl Marx định nghĩa hàng hoá trước hết là đồ vật mang hình dạng có khả năng thoả mãn nhu cầu con người nhờ vào các tính chất của nó. Để đồ vật trở thành hàng hoá cần phải có: - Tính hữu dụng đối với người dùng - Giá trị (kinh tế), nghĩa là được chi phí bởi lao động. - Sự hạn chế để đạt được nó, nghĩa là độ khan hiếm. 2. Hai thuộc tính cơ bản của hàng hóa a. Giá trị sử dụng – Khái niệm: Giá trị sử dụng là công dụng hay tính có ích của vật nhằm thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người. Ví dụ: gạo để ăn, áo để mặc, máy móc sx, điện thắp sáng,… - Đặc điểm;
  • 4. giá trị sử dụng của một hàng hóa không phải ngay một lúc đã phát hiện ra được hết, mà nó được phát hiện dần dần trong quá trình phát triển của khoa học kĩ thuật. Với ý nghĩa này, giá trị sử dụng được xem có tính lịch sử cụ thể, phụ thuộc vào sự phát triển của KH-KT +Gía trị sử dụng hay công dụng của hàng hóa là do thuộc tính tự nhiên của vật thể hàng hóa quyết định giúp thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người. Với ý nghĩa này, giá trị sử dụng là 1 phạm trù vĩnh viễn. +Gía trị sử dụng chỉ thể hiện khi con người sử dụng hay tiêu dùng, nó là nội dung vật chất của của cải, không kể hình thức xã hội của của cải đó như thế nào. Điều này nói lên ý nghĩa quan trọng của tiêu dùng đói với sản xuất. +Gía trị sử dụng của hàng hóa là giá trị là giá trị sử dụng của xã hội vì giá trị sử dụng của hàng hóa không phải là giá trị sử dụng của người sản xuất trực tiếp mà là cho một người khác, cho xã hội thông qua trao đổi. mua bán. Điều đó đòi hỏi người sản xuất hàng hóa phải luôn luôn quan tâm đến nhu cầu của xã hội, làm cho sản phẩm của mình đáp ứng nhu cầu của xã hội thì hàng hóa của họ mới bán được +Một vật khi đã là hàng hóa thì nhất thiết nó phải có giá trị sử dụng. Nhưng không phải bất cứ vật gì có giá trị sử dụng cũng đều là hàng hóa. Chẳng hạn như không khí rất cần cho cuộc sống nhưng không phải là hàng hóa. Như vậy, trong kinh tế hàng hóa, vật mang giá trị sử dụng đồng thời cũng là vật mang giá trị trao đổi do lao động cụ thể làm ra. b. Giá trị Muốn hiểu được giá trị hàng hóa phải đi từ giá trị trao đổi. giá trị trao đổi là môt quan hệ về số lượng, là tỉ lệ theo đó một giá trị sử dụng loại này được trao đổi với những giá trị sử dụng loại khác. VD:1m vải = 5kg thóc. Tức 1m vải có giá trị trao đổi = 5kg thóc Hai hàng hóa khác nhau có thể trao đổi được với nhau thì giữa chúng phải có 1 cơ sở chung nào đó. Cái chung đó là: cả vải và thóc đều là sản phẩm của lao động, đều có 1 lượng lao động kết tinh trong đó. Chính vì thế mà nó trao đổi được với nhau. Vì vậy người ta trao đổi hàng hóa cho nhau chẳng qua là trao đổi lao động hao phí của mình ẩn dấu trong hàng hóa đó. Từ trên ta rút ra kết luận: giá trị là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa. - Gía trị hàng hóa là biểu hiện quan hệ giữa những người sản xuất hàng hóa. - Gía trị là một phạm trù lịch sử, gắn liền với nền sản xuất hàng hóa
  • 5. là nội dung là cơ sở của giá trị trao đổi, còn giá trị trao đổi chỉ là hình thức biểu hiện cuả giá trị, Nếu giá trị sử dụng là thuộc tính tự nhiên thì giá trị là thuộc tính xã hội của hàng hóa. c. Mối quan hệ giữa giá trị và giatrị sử dụng: Giữa hai thuộc tính của hàng hóa luôn có mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau. Trong đó, giá trị là nội dung, là cơ sở của giá trị trao đổi; còn giá trị trao đổi là hình thức biểu hiện của giá trị ra bên ngoài. Khi trao đổi sản phẩm cho nhau, những người sản xuất ngầm so sánh lao động ẩn giấu trong hàng hoá với nhau. Thực chất của quan hệ trao đổi là người ta trao đổi lượng lao động hao phí của mình chứa đựng trong các hàng hoá. Vì vậy, giá trị là biểu hiện quan hệ xã hội giữa những người sản xuất hàng hoá. Giá trị là một phạm trù lịch sử, gắn liền với nền sản xuất hàng hoá. Nếu giá trị sử dụng là thuộc tính tự nhiên thì giá trị là thuộc tính xã hội của hàng hoá. Như vậy, hàng hoá là sự thống nhất của hai thuộc tính giá trị sử dụng và giá trị, nhưng là sự thống nhất của hai mặt đối lập. Đối với người sản xuất hàng hoá, họ tạo ra giá trị sử dụng, nhưng mục đích của họ không phải là giá trị sử dụng mà là giá trị, họ quan tâm đến giá trị sử dụng là để đạt được mục đích giá trị mà thôi. Ngược lại, đối với người mua, cái mà họ quan tâm là giá trị sử dụng để thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của mình. Nhưng, muốn có giá trị sử dụng thì phải trả giá trị cho người sản xuất ra nó. Như vậy, trước khi thực hiện giá trị sử dụng phải thực hiện giá trị của nó. Nếu không thực hiện được giá trị, sẽ không thực hiện được giá trị sử dụng.
  • 6. nhằm nâng cao sức cạnh tranh cho hàng hóa Việt Nam 1. Đặc điểm hàng hóa Việt Nam hiện nay Xu hướng vận động và phát triển kinh tế hàng hoá ở nước ta gắn liền với các đặc điểm sau : Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển biến từ nền kinh tế hàng hoá kém phát triển, mang nặng tính tự cấp tự túc sang thành nền kinh tế hàng hoá phát triển từ thấp đến cao. Do nền kinh tế nước ta có cơ cấu hạ tầng vật chất và hạ tầng xã hội thấp kém. Trình độ cơ sở vật chất và công nghệ trong các doanh nghiệp lạc hậu, không có khả năng cạnh tranh. Hầu như không có đội ngũ nhà doanh nghiệp có tầm cỡ. Thu nhập của người làm công ăn lương và nông dân thấp kém, sức mua hàng hoá của xã hội và dân cư thấp nên nhu cầu tăng chậm, dung lượng thị trường trong nước còn hạn chế. Các biểu hiện trên một mặt phản ánh trình độ thấp kém về dung lượng cung cầu hàng hoá và khả năng cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường. Mặt khác nó cũng tạo ra áp lực buộc chúng ta phải vượt qua thực trạng đó và đưa nền kinh tế phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng. Nền kinh tế hàng hóa dựa trên cơ sở nền kinh tế tồn tại nhiều thành phần: Tiếp cận đặc điểm này của kinh tế hàng hoá theo các khía cạnh sau : Nền kinh tế nhiều thành phần với nhiều hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất là cơ sở kinh tế gắn liền với sự tồn tại và phát triển kinh tế hàng hoá. Thực trạng kinh tế hàng hoá ở nước ta kém phát triển là do nhiều nhân tố, nhưng nhân tố gây hậu quả nặng nề nhất là sự nhận thức không đúng dẫn đến nôn nóng xoá bỏ nhanh các thành phần kinh tế. Nền kinh tế nhiều thành phần là nguồn lực tổng hợp về nhiều mặt, có khả năng đưa nền kinh tế vượt khỏi tình trạng thấp kém. Nền kinh tế hàng hoá chịu tác động của sự thay đổi cơ cấu ngành theo hướng nền kinh tế dịch vụ phát triển nhanh chóng. Đặc điểm này gắn liền với hai khía cạnh sau :
  • 7. bảo cho mọi người, mọi doanh nghiệp dù ở thành phần kinh tế nào cũng đều được tự do kinh doanh theo pháp luật, được pháp luật bảo hộ quyền sở hữu và quyền thu nhập hợp pháp. + Các chủ thể kinh tế đều được hoạt động theo cơ chế tự chủ, hợp tác, cạnh tranh với nhau và đều bình đẳng trước pháp luật. Nền kinh tế hàng hoá phát triển theo cơ cấu kinh tế “mở” giữa nước ta với các nước trên thế giới : Sự ra đời nền kinh tế hàng hoá tư bản chủ nghĩa đã làm cho thị trường dân tộc hoạt động trong sự gắn bó với thị trường thế giới. Nền kinh tế hàng hoá với cơ cấu “mở” ra đời bắt nguồn từ quy luật phân bố và phát triển không đều về tài nguyên thiên nhiên, sức lao động và thế mạnh giữa các nước. Nền kinh tế hàng hoá theo cơ cấu “mở”, thích ứng với chiến lược thị trường “hướng ngoại”. Phát triển kinh tế hàng hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa với vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước và sự quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước : Vai trò định hướng xã hội chủ nghĩa của kinh tế nhà nước : Trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, kinh tế nhà nước với bản chất vốn có của nó, lại nắm giữ các ngành, lĩnh vực then chốt và trọng yếu nên trở thành nhân tố kinh tế bảo đảm cho kinh tế hàng hoá của các thành phần kinh tế khác phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tính hiện thực của vai trò định hướng xã hội chủ nghĩa của kinh tế nhà nước chỉ được khẳng định khi nó phát huy được sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế khác. Vai trò quản lý của nhà nước, nhân tố đảm bảo cho định hướng xã hội chủ nghĩa của kinh tế hàng hoá : Sự phát triển kinh tế hàng hoá bên cạnh mặt tích cực, đem lại sự phát triển lực lượng sản xuất, tăng trưởng kinh tế cao của nó, mặt khác nó không tránh khỏi những khuyết tật nhất định về mặt xã hội như : phá sản, khủng hoảng, tàn phá môi trường ... Những khuyết tật này cần phải có sự quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước. Nền kinh tế hàng hoá giữa các nước , ngoài sự khác nhau về trình độ phát triển và sự phân phối lợi ích kinh tế giữa các tầng lớp dân cư do kinh tế đem lại nhằm mục đích gì? có lợi cho ai? Còn có sự khác nhau không kém phần quan trọng là ở trình độ quản lý theo cơ chế thị trường của nhà nước.
  • 8. chịu ảnh hưởng lâu ngày cuả cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu , bao cấp... Nên vai trò quản lý của nhà nước ta là nhân tố đảm bảo cho định hướng XHCN của kinh tế hàng hoá.Một nền kinh tế hàng hoá kém phát triển, mang nặng tính chất tự cung tự cấp, chuyển sang một nền kinh tế hàng hoá phát triển từ thấp đến cao đòi hỏi nhà nước phải sử dụng có hiệu quả các công cụ pháp luật, tài chính, tiền tệ, tín dụng ... Mặt khác phải tạo ra môi trường và điều kiện cho sản xuất kinh doanh trên cơ sở khai thác tiềm năng của các thành phần kinh tế, thực hiện các chính sách xã hội đảm bảo cho sự thống nhất giữa kinh tế và xã hội. 2. Thực trạng hàng hóa Việt Nam hiện nay Một câu hỏi được đặt ra là: “ Hiện nay, hàng hóa Việt Nam đi vào thế giới còn kém về năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh... Vì sao vậy?” Có nhiều lý do, nhưng có một lý do chính là, nền kinh tế hàng hóa nước ta chưa thật sự trở thành nền kinh tế hàng hóa lớn. Lấy việc xuất khẩu nông, thủy sản làm ví dụ. Cơ sở sản xuất, chế biến nông, thủy sản ở nước ta, nói chung còn lạc hậu, trong khi thị trường quốc tế lại khó tính, đòi hỏi rất cao về chất lượng, quy cách và mẫu mã sản phẩm. Không tiến lên trình độ sản xuất lớn, hiện đại thì nền kinh tế thị trường nước ta sẽ không thể khắc phục được sự lạc hậu. Chúng ta sẽ không đi lại con đường từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa kiểu tập trung, quan liêu, bao cấp trước đây. Tuy rằng việc xây dựng những tổ hợp sản xuất, chế biến quy mô lớn nào đấy chuyên để xuất khẩu là cần thiết, nhưng sản xuất lớn không có nghĩa là quy mô mọi thứ phải lớn. Con đường đi lên sản xuất lớn của chúng ta hiện nay là con đường thị trường, một con đường mà chúng ta phải tìm tòi, khai phá ra. Vẫn là kinh tế gia đình, nhưng nếu biết biến các cơ sở nhỏ lẻ của nó thành những mắt khâu của nền kinh tế thị trường lớn, một nền kinh tế có sự liên kết các cơ sở sản xuất, khoa học và quản lý, các cơ sở sản xuất lớn, vừa và nhỏ thành một hệ thống thống nhất để tạo ra những sản phẩm ổn định, có chất lượng và sức cạnh tranh cao, thì đó chính là cách sản xuất lớn của nền kinh tế thị trường hiện đại. Thực tế nền kinh tế nước ta khi chuyển sang kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hóa kém phát triển, còn mang nặng tính tự cấp tự túc và chịu ảnh hưởng của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Do hệ thống công cụ còn lạc hậu, lao động thủ công còn nhiều cho nên chất lượng sản phẩm của hầu hết các doanh nghiệp còn thấp kém, khả năng của nó trên thị trường quốc tế và ngay cả thị trường trong nước còn kém. Các doanh nghiệp phải chấp nhận sự cạnh tranh để tồn tại và chất lượng HH, dịch vụ trở thành vấn đề quyết định. Do đó, các đơn vị sản xuất, kinh doanh không ngừng đưa ra thị trường nhiều lọai HH với mẫu mã, chủng loại khác nhau và chất lượng ngày càng nâng cao. Vì vậy khả năng cạnh tranh trên thị trường của hàng hóa sẽ tốt hơn và người tiêu dùng có nhiều sự lựa chọn hơn khi mua HH.
  • 9. phát triển hiện nay đã tạo ra nhiều loại HH mà trước thời kì đổi mới không có hoặc hầu như không phát triển nổi bật như chứng khoán.Tuy còn mới phôi thai, qua hơn một năm hoạt động với HH còn nghèo nàn mặc dù chưa phát triển thành phong vũ nhưng nó dự báo một tương lai rộng mở cho thị trường chứng khoán nói riêng và nền kinh tế nước ta nói chung. ¯ Dựa vào đặc điểm của từng loại HH và mục đích sử dụng chúng ta có thể chia HH hiện nay ra thành 3 loại: hàng công nghiệp, hàng nông, lâm,thủy sản và hàng dịch vụ. Tuy nhiên, khi nói đến hàng hóa mà chỉ chăm chú vào phát triển sản lượng thì HH của nước ta không thể đứng vững trên thị trường được, muốn tồn tại và phát triển ta cần phải nâng cao chất lượng HH. Chất lượng chính là sự đáp ứng yêu cầu của người sử dụng tức là HH sản xuất ra phải phù hợp với mục đích và điều kiện sử dụng trong những hoàn cảnh cụ thể. Hiện nay chất lượng được đánh giá thông qua ISO ( từ vựng chất lượng). Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng sẽ thay đổi qua các năm tùy vào sự phát triển của nền kinh tế. Việc quản lý Nhà nước về quản lý chất lượng hàng hóa, dịch vụ bao gồm : - Nhà nước định hướng sự phát triển nâng cao chất lượng hàng hóa, dịch vụ, xây dựng kế hoạch, quy hoạch về chất lượng, ban hành luật và các chính sách khuyến khích chất lượng. - Nhà nước quy định chế độ, thể lệ về quản lý chất lượng, ban hành tiêu chuẩn Việt Nam và tiêu chuẩn quốc tế liên quan đến chất lượng hàng hóa, dịch vụ. - Nhà nước xác nhận tính hợp pháp của hàng hóa, dịch vụ về mặt chất lượng, của các hệ thống quản lý chất lượng, của các phòng thử nghiệm chất lượng hàng hóa…bằng việc cấp đăng kí, chứng nhận và công nhận. - Nhà nước giám sát sự thực hiện những quy định quản lý qua thanh tra Nhà nước về chất lượng hàng hóa và xử lý vi phạm pháp luật về chất lượng hàng hóa, thiết lập trật tự kỉ cương trong lĩnh vực chất lượng hàng hóa, bảo vệ lợi ích hợp pháp cho các doanh nghiệp và người tiêu dùng Các vấn đề cụ thể về chất lượng HH, do các doanh nghiệp tự quản lý, tự quyết định. HH lưu hành trên lãnh thổ Việt Nam phải hợp pháp về mặt chất lượng, việc sản xuất và buôn bán HH (kể cả xuất, nhập khẩu) phải thực hiện những quy định về chất lượng HH của cơ quan quản lý Nhà nước về chất lượng HH. Dưới đây là hình ảnh về một số hàng hóa có mặt trên thị trường Việt Nam: Quá trình hình thành nền KTT T định hướng XHCN ở Việt Nam gắn liền với sự tác động của quá trình mở cửa ra thị trường thế giới và sự hòa nhập với các nền KTTT. Vì vậy sự giao lưu về HH dịch vụ là một đòi hỏi của nền kinh tế. Thông qua hoạt động ngoại thương HH được vận chuyển và lưu thông ra nước ngoài được gia
  • 10. HH xuất khẩu (XK) cũng có sự biến đổi lớn về tất cả các mặt. Giữa HHXK và hàng nội địa đều có có những yêu cầu chất lượng giống nhau nhưng trong hoàn cảnh hiện nay, kinh tế chưa phát triển, hàng tiêu thụ nội địa và hàng XK còn có sự phân biệt. Hàng XK bao giờ cũng có những đói hỏi cao hơn hàng nội địa về chất lượng và mẫu mã. Tuy vậy, nhờ việc áp dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến nước ta đã tăng được sản lượng HHXK trong những năm qua, đây là một dấu hiệu khả quan phản ánh sự phát triển ngày càng cao của yếu tố HH trong nền KTTT nước ta hiện nay.Theo đánh giá về thành tựu của việc thực hiện kế hoạch 5 năm về xuất nhập khẩu tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X thì tổng kim ngạch xuất khẩu HH 5 năm đạt gần 111 tỉ USD, tăng 17,5%/năm ( kế hoạch 16%/năm); năm 2005 xuất khẩu bình quân đầu người đạt 390 USD gấp đôi năm 2000. Tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa 5 năm là 130,2 tỉ USD, tăng 18,8%/năm. Nhập siêu hàng hóa 5 năm là 19,3 tỉ USD, bằng 17,4% tổng kim ngạch xuất khẩu HH. Trong tổng kim ngạch xuất khẩu, tỉ trọng hàng công nghiệp nặng và khoáng sản giảm từ 37,2% năm 2000 xuống còn 35,8% năm 2005, hàng nông, lâm nghiệp, thủy sản giảm từ 29% xuống còn 24,4%, hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp tăng từ 33,9% lên 39,8%. Đánh giá chung về thực trạng sự phát triển của yếu tố HH trong thực tiễn nền kinh tế thị trường nước ta hiện nay:  Ưu điểm: - Thứ nhất, nhìn chung sự phát triển của yếu tố HH sẽ tạo ra sự đa dạng và phong phú về số lượng và chủng loại những hàng hóa trên thị trường một mặt phản ánh những trình độ cao của năng suất lao động xã hội, mặt khác cũng nói lên mức độ phát triển của quan hệ trao đổi, trình độ của phân công lao động xã hội và sự phát triển của thị trường. Việc nâng cao phát triển yếu tố HH trong kinh tế thị trường sẽ giúp đẩy mạnh sức cạnh tranh của HH, của doanh nghiệp của nền kinh tế để theo kịp yêu cầu hội nhập. - Thứ hai, sự phát triển của yếu tố HH cũng góp phần nâng cao đời sống vật chất, tăng khả năng lựa chọn cho người tiêu dùng. Bên cạnh đời sống vật chất được cải thiện thì cả đời sống văn hóa, chăm sóc y tế cho người dân cũng được nâng cao : đến giữa năm 2000 nước ta đã hoàn thành chương trình mục tiêu chống nạn mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học. Công tác y tế và chăm sóc sức khỏe cộng đồng cũng có nhiều tiến bộ. - Thứ ba, nó kích thích đổi mới kỹ thuật hợp lý hóa sản xuất. Sức ép của cạnh tranh buộc những người sản xuất phải áp dụng phương pháp sản xuất tốt nhất, không ngừng đổi mới kĩ thuật và công nghệ sản xuất, đổi mới sản phẩm, đổi mới tổ chức sản xuất và quản lý kinh doanh, nâng cao hiệu quả.
  • 11. sự phát triển của HH cũng giúp cho các doanh nghiệp, các nhà sản xuất thích nghi cao hơn với các điều kiện kinh tế biến đổi làm thích ứng kịp thời giữa sản xuất xã hội với nhu cầu xã hội. Bên cạnh những mặt tích cực do yếu tố HH phát triển mang lại, thì trong đó cũng chứa những khuyết tật vốn có của nó  Nhược điểm: Một là, trên thị trường chứa đựng tính tự phát và nhiều yếu tố bất ổn, mất cân đối. Vì chạy theo lợi nhuận các nhà sản xuất, kinh doanh có thể gây nhiều hậu quả xấu: môi trường bị hủy hoại, phá sản, thất nghiệp, phân hóa xã hội cao, trốn lậu thuế, làm hàng giả… Mặc khác, nền kinh tế thị trường nước ta chưa phát triển hoàn thiện. Do đó, qui mô thị trường bị hạn chế : chỉ có hàng tiêu dùng mới được thừa nhận là hàng hóa. Các tư liệu sản xuất không phải là hàng hóa hoặc chỉ mang cái vỏ HH mà thôi. Nhiều sản phẩm được cung cấp theo định lượng, chỉ tiêu của kế hoạch. Hai là, hầu hết giá cả HH đều do Nhà nước qui định nên đồng tiền thực tế chỉ còn làm chức năng thanh toán. Vai trò của quan hệ cung cầu trở nên không còn có ý nghĩa với việc hình thành giá cả. Tình hình đó dẫn đến tình trạng là tất cả các quan hệ cân bằng của thị trường như giá cả cung cầu, sự khan hiếm tương đối của các nguồn lực…đều bị méo mó, biến dạng, thậm chí bị loại khỏi đời sống kinh tế. Quan hệ kinh tế quốc tế chủ yếu diễn ra ở lĩnh vực thương mại và tuân theo nguyên tắc “ Nhà nước độc quyền ngoại thương”. Cùng với sự hạn chế các chủ thể tham gia thương mại quốc tế, các quy định chặt chẽ về hạn ngạch, các quy định có tính chất hành chính về thị trường bán và mua hàng, về giá cả, về tỷ giá hối đoái, đã khiến cho các hoạt động kinh tế trong nước bị tách rời khỏi hệ thống kinh tế thế giới. Trong kinh tế kế hoạch hóa tập trung, tuy có sử dụng một số khái niệm, phạm trù trong sản xuất HH, nhưng ở đây, cơ chế thị trường không có tác dụng. Mọi họat động kinh tế đã được nhà nước hóa. Sản xuất mặt hàng nào, sản xuất bao nhiêu, tiêu thụ ở đâu, giá cả bao nhiêu đều do Nhà nước quyết định. Ba là, vì mục đích hoạt động đạt lợi nhuận tối đa và sản xuất ra nhiều sản phẩm càng tốt, vì vậy họ có thể lạm dụng tài nguyên của xã hội, gây ô nhiễm môi trường sống của con người. Bốn là, phân phối thu nhập sẽ không cân bằng, vì sự tác động của cơ chế thị trường sẽ dẫn đến sự phân hóa giàu nghèo. Do đó người nghèo ít được sự lựa chọn trong việc mua hàng hóa.
  • 12. nhằm nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam a. Tăng sức cạnh tranh của hàng hóa Các hàng hóa Việt Nam đang bị cạnh tranh mạnh mẽ bởi hàng Trung Quốc về mặt hàng tiêu dung và các mặt hàng công nghệ cao thì bị ảnh hưởng bởi hàng Mỹ, Nhật cả về giá cả và giá trị. Những mặt hàng tiêu biểu: - Hàng tiêu dùng, quần áo: + Giá cao hơn hàng Trung Quốc + Giá trị có phần tốt hơn nhưng còn ít mẫu mã, kiểu dáng, chưa thu hút được người tiêu dùng. →Cần chú trọng hơn về mẫu mã và chất lượng, tăng cường kêu gọi người Việt Nam dùng hàng Việt Nam. - Rau, quả ở Việt Nam: + Bị xâm lấn bởi hàng Trung Quốc có nhiều chất độc hại, đắt trong khi hàng Việt Nam lại bị tụt dốc, rẻ, màu sắc xấu. • Nguyên nhân: Hàng Việt Nam chưa có loại chất bảo quản giữ cho hàng hóa tươi lâu như Trung Quốc, khi chở từ Nam ra Bắc cũng như từ Bắc vào Nam trong vài ngày thì rau quả bị sần, xấu màu và thối rữa → Mất giá. → 2 phương án: + Giảm thời gian vận chuyển nhưng không thể đưa máy bay vận chuyển rau quả được. + Cần tìm ra chất bảo quản, để giữ hàng hóa lâu hơn. - Hàng cafe, ngũ cốc: Phần lớn xuất khẩu ra nước ngoài nhưng chưa được các nước khác chú ý vì hàng Việt Nam khâu xử lí còn kém, chất lượng hàng hóa khi đến tay người tiêu dùng không bằng sản phẩm của các nước khác. → Biện pháp: Nhà nước nên thu mua tập trung các mặt hàng nông sản hoặc có biện pháp khuyến khích các doanh nghiệp thu mua nông sản để tập trung xử lí nhằm giảm giá thành khâu xử lí, tang chất lượng hàng nông sản xuất khẩu ra nước noài. Kiểm soát thành phần trong sản phẩm và nên có biện pháp thích đáng với những doanh nhiệp làm sơ sài trong khâu giới thiệu thành phần sản phẩm gây mất uy tín hàng Việt Nam trên thị trường hàng hóa quốc tế.
  • 13. Tăng cường mở rộng và phát triển kinh tế quốc tế, quan hệ thương mại với các nước trên thế giới. Nghiêm chỉnh thực hiện các cam kết với các quốc gia và WTO - Đổi mới thể chế chính sách quản lý hoạt động xuất nhập khẩu theo hướng minh bạch hóa nhằm khuyến khích thành phần kinh tế, mọi đối tượng kinh doanh có hiệu quả. Việt Nam cần hoàn thiện hơn nữa các văn bản dưới luật cho việc thực thi điều kiện thuận lợi hơn, đặc biệt các quy định về hải quan. - Phải có chiến lược quy hoạch và xây dựng các dự án sản xuất hang hóa xuất khẩu trên cơ sở đánh giá đúng tiềm năng và lợi thế của từng vùng. - Ưu tiên nhập khẩu các hang hóa, công nghệ mới áp dụng vào sản xuất. - Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực đặc biệt là đội ngũ cán bộ đàm phán thương mại. c. Vi Mô - Lựa chọn mặt hàng kinh doanh có nhiều triển vọng có thế mạnh của Việt Nam như: gạo, cà phê, cao su, dệt may, dây cáp điện, linh kiện điện tử và mạch in, sản phẩm gỗ, hàng thủ công mỹ nghệ. - Đầu tư cải tiến công nghệ sản xuất hàng xuất khẩu để nâng cao chất lượng, tăng sức cạnh tranh, cải tiến mẫu mã, giảm giá thành và giá xuất khẩu cho hàng hóa Việt Nam. Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, nên tập trung vào công nghệ bảo quản và công nghệ chế biến. - Đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu thị trường nước ngoài để nắm bắt cơ hội kinh doanh, xuất khẩu những thứ thị trường cần. (nghiên cứu chính sách thương mại, mở văn phòng đại diện, cơ quan xúc tiến, thương mại tại các thị trường xuất nhập khẩu lớn, đào tạo đội ngũ nhân viên maketting giỏi) - Tăng cường công tác quảng bá các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp - Đào tạo đội ngũ cán bộ kinh doanh quốc tế trong các doanh nghiệp - Thúc đẩy liên daonh liên kết với các đối tác nước ngoài để tăng cường tiềm lực xuất khẩu - Đàu tư thỏa đáng và mẫu, mốt, giống cây non - Phấn đấu giảm chi phí, giảm giá, tăng sức cạnh tranh - Tiếp cận tốt với các kênh phân phối phù hợp ở các thị trường khác nhau : Eu là hình thức tập đoàn , Mỹ là hình thức hiệp hội d. Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh về giá của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay Nâng cao năng lực cạnh tranh về giá của sản phẩm có nghĩa là doanh nghiệp phải tìm cách để nâng cao chất lượng sản phẩm, trong khi đó giá thành phải hạ. Để làm được điều này, các doanh nghiệp cần có những biện pháp để tăng năng suất lao động (năng
  • 14. tăng làm cho sản phẩm làm ra trong một đơn vị thời gian nhiều hơn, giá cả hàng hoá từ đó sẽ giảm xuống) và tăng mức độ phức tạp của lao động (lao động phức tạp tao ra nhiều sản phẩm chất lượng tốt, đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng). Ngoài ra còn có nhiều biện pháp khác có thể nâng cao năng lực cạnh tranh về giá cho sản phẩm.  Giải pháp nhằm nâng cao năng suất lao động của các doanh nghiệp - Ứng dụng khoa học - công nghệ vào quá trình sản xuất. Bản thân các doanh nghiệp vừa phải nỗ lực cải tiến, hoàn thiện công nghệ hiện có, vừa phải tranh thủ tiếp thu công nghệ tiên tiến của nước ngoài để tạo ra nhiều sản phẩm có chất lượng, giảm chi phí sản xuất. Đổi mới công nghệ phải căn cứ vào chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp và xu thế phát triển của công nghệ thế giới để lựa chọn công nghệ thích hợp, sản xuất đáp ứng nhu cầu thị trường trên cơ sở tiết kiệm chi phí. Doanh nghiệp cần đầu tư đổi mới đồng bộ dứt điểm từng dây chuyền công nghệ những sản phẩm quan trọng, tránh đầu tư lan man. Dây chuyền máy móc hiện đại sẽ làm ra nhiều sản phẩm hơn, đồng đều hơn, giảm bớt sức lao động chân tay trong mỗi sản phẩm. Như vậy giá thành cũng có thể hạ. - Đầu tư đổi mới công nghệ Đầu tư đổi mới công nghệ phải đi đôi với quá trình tiếp thu công nghệ mới và đồng bộ, tiến hành tổ chức lại quản lý. Chuẩn bị đội ngũ cán bộ kĩ thuật và đào tạo công nhân để có khả năng vận hành, sử dụng công nghệ hiệu quả nhất. Để đầu tư đổi mới công nghệ, nhà nước cần có cơ chế và chính sách khuyến khích nghiên cứu, sản xuất, ứng dụng công nghệ mới, tiến bộ như: hỗ trợ kinh phí cho các chương trình, đề tài nghiên cứu sản xuất ra máy móc thiết bị trong nước, lập quỹ dự trữ đầu tư phát triển, đổi mới công nghệ, giảm thuế một số năm đối với những doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ và áp dụng công nghệ mới trong sản xuất. - Tận dụng hiệu quả các yếu tố về tư liệu sản xuất và các điều kiện tự nhiên để tang năng suất doanh nghiệp như sử dụng hợp lí các nguồn nguyên liệu sẵn có, giá rẻ ở trong nước để đưa vào chế biến, đặt nhà máy ở nơi có vị trí địa lí thuận lợi (như gần nguồn nguyên liệu, gần trục giao thông, gần nơi tiêu thụ…) để giảm đến mức thấp nhất chi phí sản xuất mà vẫn đảm bảo năng suất. Chi phí sản suất giảm đồng nghĩa với việc giá thành sản phẩm cũng giảm theo. - Mở rộng quy mô sản xuất và tăng hiệu suất của tư liệu sản xuất.  Giải pháp nhằm tăng mức độ phức tạp trong lao động Mức độ phức tạp của lao động cũng ảnh hưởng nhất định đến số lượng giá trị của hàng hoá. Trong cùng một thời gian thì lao động phức tạp tạo ra nhiều giá trị hơn lao
  • 15. Tăng chất lượng của sản phẩm cần làm cho lao động phức tạp kết tinh trong sản phẩm nhiều hơn. - Một sản phẩm làm ra có chất lượng tốt đòi hỏi lao động kết tinh trong đó phải phức tạp, tỉ mỉ. Vì vậy, tay nghề của lao động rất quan trọng. Đào tạo nghề cho lao động ở nước ta là một trong những giải pháp cần thiết vì lao động nước ta chủ yếu là lao động thủ công, tay nghề chưa cao. Người lao động Việt Nam cần cù, chăm chỉ, tiếp thu nhanh tiến bộ khoa học - kĩ thuật tuy nhiên lại chưa dược đào tạo đúng mức. Nâng cao chất lượng nguồn lao động đồng nghĩa với việc mở các trường dạy nghề, tập huấn kỹ thuật, cho người lao động tiếp cận với những tiến bộ của khoa học công nghệ… Trong nền sản xuất hàng hoá hiện nay, sự phân công lao động xã hội đã tạo nên sự chuyên môn hoá lao động, dẫn tới sự chuyên môn hoá sản xuất. Vì vậy mỗi công nhân phải thành thạo một ngành nghề của mình để tạo ra một sản phẩm có chất lượng. - Ngoài bồi dưỡng kiến thức chuyên môn kĩ năng, tay nghề còn phải nâng cao trình độ tổ chức quản lý, tổ chức sản xuất khoa học cho người lao động. Cần thông qua các chương trình đào tạo cụ thể để phù hợp với từng đối tượng, từng ngành nghề. Ngoài ra còn có thể phổ biến cho công nhân các kiến thức liên quan đến chất lượng sản phẩm, giá cả thị trường và kiến thức về khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, từ đó nâng cao chất lượng đội ngũ lao động của nước ta nhằm tạo ta một lực lượng lao động có đủ khả năng tiếp thu, thích ứng với môi trường kinh doanh hiện nay. Như vậy, khi trình độ của người lao động tăng cao cũng có nghĩa lao động phức tạp kết tinh trong hàng hoá tăng lên, làm cho sản phẩm làm ra ngày càng có chất lượng, mẫu mã phù hợp, đáp ứng thị hiếu của người tiêu dùng. Đây là một trong những điều kiện để tăng năng lực cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam ở thị trường trong nước và trên thế giới.  Chính sách của nhà nước Sự cạnh tranh thành công về giá của các doanh nghiệp còn liên quan đến các chính sách của Nhà nước, trong đó cần coi trọng các vấn đề: - Nhà nước cần nhanh chóng ban hành các chính sách định lượng về quản lí giá cả, giúp các doanh nghiệp có thêm căn cứ để xác định giá cả cho phù hợp. - Thực hiện các chính sách khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm. Trong đó có các chính sách về thuế, chính sách về nhập khẩu công nghệ, chính sách ưu đãi với những doanh nghiệp cải tiến chất lượng sản phẩm, nâng cao năng suất lao động. - Bên cạnh đó nhà nước cần tạo điều kiện tổ chức các cuộc triển lãm về cải tiến chất lượng, giảm giá thành sản phẩm để các doanh nghiệp học tập kinh nghiệm lẫn nhau, tham khảo về giá cả lẫn nhau. Đồng thời cần chủ động thường xuyên mời các
  • 16. ngoài đến để tổ chức các khoá tập huấn về quản lí chất lượng, trao đổi công nghệ mới và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.  Một số giải pháp khác Ngoài ra, chúng ta còn có nhiều biện pháp khác để làm giảm giá thành sản phẩm mà vẫn bảo đảm chất lượng. Ví dụ như tận dụng nguồn nguyên liệu dồi dào, giá rẻ ở trong nước sẽ làm giảm chi phí sản xuất, chi phí sản xuất càng thấp sẽ làm giá cả càng hạ. Mở rộng việc quảng bá, tiếp thị hàng Việt Nam để đông đảo người dân tiếp cận với hàng trọng nước, loại bỏ tâm lí “sính ngoại” của nhiều người. Để làm được điều này ta có thể mở những gian hàng giới thiệu hàng Việt Nam chất lượng cao, đưa hàng Việt về nông thôn, tổ chức các tuần lễ khuyến mãi với các sản phẩm của các doanh nghiệp trong nước. Ngoài ra còn phải xây dựng thương hiệu cho hàng Việt Nam để có chỗ đứng trong lòng người tiêu dùng, làm cho người tiêu dùng tin tưởng vào chất lượng và giá cả của hàng trong nước. Như vậy, để nâng cao năng lực cạnh tranh về giá của hàng hoá của các doanh nghiệp Việt Nam thì phải thực hiện đồng bộ các biện pháp trên. Tuy nhiên vẫn phải ưu tiên hàng đầu cho các giải pháp nhằm nâng cao năng suất lao động và tăng mức độ phức tạp của lao động. Vì đây chính là yếu tố quyết định đến giá thành và chất lượng sản phẩm.
  • 17. hóa hiện hữu ở khắp mọi nơi trên thế giới. Chúng có thể ở dạng hữu hình hoặc vô hình. Cùng với khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại hàng hoá đã biến tướng vô cùng đa dạng. Vì vậy việc nghiên cứu về hàng hoá và những thuộc tính của nó là một việc quan trọng và cần thiết . Việc nghiên cứu này giúp đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh cho hàng hóa . Mục đích chính của bất kể nền kinh tế nào cuối cùng cũng là sản xuất ra hàng hóa đáp ứng nhu cầu của con người , chính vì thế hàng hóa có vai trò rất quan trọng, ngày càng được quan tâm phát triển tiên tiến. Quốc gia nào muốn trở thành cường quốc thì không chỉ chính trị, xã hội vững mạnh mà còn cần một nền kinh tế phát triển mạnh mẽ. Và để nền kinh tế phát triển mạnh mẽ thì nền kinh tế đó ắt phải có năng lực cạnh tranh hàng hóa cao đủ dức thâu tóm thị trường mang về nguồn lợi nhuận lớn. Cạnh tranh hàng hóa có mặt tốt và cũng có mặt xấu. Bất kể nhà nước chính phủ nào hiện nay cũng đều cố gắng xây dựng nền kinh tế nước mình trở nên hung mạnh giảm thiểu những tiêu cực của cạnh tranh hàng hóa mang lại bằng những chính sách khoa học thiết thực. Việt Nam cũng vậy với nền kinh tế đang phát triển nhanh chóng thì việc nâng cao sức cạnh tranh cho hàng hóa đẩy nền kinh tế lên những bước khởi sắc sẽ giúp cho nền kinh tế Việt Nam nhanh chóng trở thành nền kinh tế phát triển sang ngang tầm với Trung Quốc, Hàn Quốc, Singapo,..Nền kinh tế Việt Nam đang được các nhà đầu tư coi như là một ngôi sao đang lên của Châu Á. Song song với việc phát triển kinh tế chúng ta cần phải đảm bảo sự hài hòa giữa các yếu tố phát triển và bền vững, đặc biệt là giải quyết các vấn đề xã hội, khắc phục khoảng cách chênh lệch giàu nghèo , giải quyết tình trạng lãng phí và ô nhiễm môi trường…như thế một tương lai không xa chúng ta có thể chứng kiến một sự chuyển mình ngoạn mục của đất nước Việt Nam.