Mỗi đứa trẻ tại việt nam gánh bao nhiêu nợ năm 2024

VOV.VN - Với quy mô GDP năm 2021 đạt 368 tỷ USD, số nợ công tuyệt đối/GDP của Việt Nam ước đạt khoảng 158,6 tỷ USD. So với số dân tính đến hết ngày 31/12/2021 vào khoảng 98,5 triệu người, số nợ công/người dân Việt Nam là khoảng 37 triệu đồng.

Theo Bản tin nợ công của Bộ Tài chính mới công bố, số nợ công của Việt Nam năm 2021 giảm xuống chỉ còn 43,1% so với mức 55,9% của năm 2020 và mức cao nhất 61,4% của năm 2017. Đây là tín hiệu đáng mừng cho nền kinh tế. Số nợ công của Việt Nam cũng thấp hơn khá nhiều so với mức trần nợ công 60%/ GDP mà Quốc hội cho phép.

Với quy mô GDP năm 2021 đạt 368 tỷ USD, số nợ công tuyệt đối/GDP của Việt Nam ước đạt khoảng 158,6 tỷ USD. So với số dân tính đến hết ngày 31/12/2021 vào khoảng 98,5 triệu người, số nợ công/người dân Việt Nam là khoảng 37 triệu đồng.

Mỗi đứa trẻ tại việt nam gánh bao nhiêu nợ năm 2024

Số nợ công tuyệt đối/GDP của Việt Nam ước đạt khoảng 158,6 tỷ USD

Một điểm đáng mừng là tỷ lệ nợ Chính phủ/GDP giảm mạnh qua các năm qua từ 51,7%/GDP (năm 2017) xuống 39,1%/GDP (năm 2021); trong khi đó, nợ do Chính phủ bảo lãnh của doanh nghiệp, tổ chức thuộc Chính phủ giảm từ 9,1%/GDP (năm 2017) xuống 3,8%/GDP (năm 2021), nợ nước ngoài của quốc gia đến hết năm 2021 còn 38,4% GDP so với mức 49% GDP năm 2017…

So với 5 năm trước, tỷ lệ nợ công của Việt Nam vượt trần trên 61,4% thì tỷ lệ nợ công năm 2021 giảm xuống còn 43,1%/GDP là điều đáng mừng. Tuy nhiên, nếu xét trên số nợ công tuyệt đối, nợ công/GDP của Việt Nam gia tăng khá nhanh trong những năm gần đây, từ mức 137,4 tỷ USD năm 2017 lên 158,6 tỷ USD năm 2021.

Sau 5 năm (2017-2021) số nợ công tuyệt đối của Việt Nam tăng 21,2 tỷ USD, bình quân mỗi năm nợ công tăng trên 4,2 tỷ USD. Số nợ công trên người từ đó cũng tăng, bất chấp tỷ lệ nợ công/GDP giảm khá mạnh.

Nếu năm 2017, số nợ công/người của Việt Nam chỉ 33,7 triệu đồng/người, năm 2021, nợ công/người của Việt Nam đã lên đến 37 triệu đồng/người. Các năm 2018 và 2019, số nợ công trung bình đạt 34 triệu đồng/người, năm 2020 số nợ công là khoảng 35,3 triệu đồng/người.

Theo các chuyên gia kinh tế, tỷ lệ nợ công/GDP giảm là do quy mô GDP của Việt Nam tăng nhanh trong thời gian gần đây, trong 5 năm 2017 - 2021, GDP tăng 1,6 lần, tăng 114 tỷ USD. Trong khi đó, số nợ công tuyệt đối tăng thêm 21,2 tỷ USD, khoảng 1,1 lần, không nhiều so với số tăng GDP, chính vì vậy đã khiến tỷ lệ nợ công/GDP giảm.

Tuy nhiên, lo ngại chính là dân số Việt Nam 5 năm qua dù đã tăng thêm 4,8 triệu người, bình quân tăng gần 1 triệu người/năm, nhưng số nợ công không giảm. Số liệu nợ công tuyệt đối giai đoạn 5 năm 2017-2021, tăng 21,2 tỷ USD, bình quân trên 4,2 tỷ USD/năm.

Bộ Tài chính cũng cho biết, các chỉ tiêu về nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia năm 2021 được tính trên cơ sở GDP năm 2021 do Bộ Kế hoạch và Đầu tư công bố.

Đáng chú ý là nợ nước ngoài giảm đi còn nợ trong nước tăng lên, đến hết năm 2021, nợ vay nước ngoài khoảng 1,075 triệu tỷ đồng; nợ vay trong nước tăng lên hơn 2,2 triệu tỷ đồng, chiếm 67,2% dư nợ Chính phủ.

Báo cáo của Bộ Tài chính cho thấy, đến năm 2021 chủ nợ song phương lớn nhất của Việt Nam là Nhật Bản hơn 316.000 tỷ đồng, Hàn Quốc, Pháp và Đức lần lượt cho vay hơn 32.000 tỷ đồng, 30.000 tỷ đồng và 14.000 tỷ đồng.

Tính theo đối tác đa phương, Ngân hàng Thế giới đứng đầu danh sách chủ nợ với hơn 380.000 tỷ đồng, tiếp đến là Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) với hơn 188.000 tỷ đồng..../.

Báo cáo của Chính phủ về tình hình nợ công năm 2021 và dự kiến năm 2022 trình đại biểu Quốc hội khóa XV, cho thấy nợ công ước tính đến cuối năm 2021 vào khoảng 3.708 nghìn tỷ đồng, bằng 43,7% GDP. Trong đó, nợ chính phủ khoảng 3.351 nghìn tỷ đồng, bằng 39,5% GDP.

Như vậy, mỗi người dân Việt Nam năm 2021 sẽ gánh khoảng 37,7 triệu đồng nợ công, trong khi đó trong năm này hàng nghìn lao động thất nghiệp, mất việc làm và các chi phí sinh hoạt vẫn đè nặng trên vai.

Nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ so với thu Ngân sách Nhà nước (NSNN) khoảng 24,8%. Nợ nước ngoài quốc gia khoảng 3.297 nghìn tỷ đồng, bằng 38,8% GDP. Trả nợ nước ngoài của quốc gia so với kim ngạch xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ (không bao gồm trả nợ gốc ngắn hạn) khoảng 5,8%.

Mỗi đứa trẻ tại việt nam gánh bao nhiêu nợ năm 2024

Năm 2021, mỗi người Việt 'gánh' 37,7 triệu đồng nợ công. (L.T tổng hợp)

Tuy nhiên, với tình hình dịch Covid-19 còn diễn biến phức tạp, tăng trưởng kinh tế quý III giảm sâu, GDP 9 tháng năm 2021 chỉ tăng 1,42% so với cùng kỳ năm trước, việc hoàn thành chỉ tiêu tăng trưởng cả năm là thách thức.

Trường hợp GDP năm 2021 không đạt mức dự báo sẽ có tác động đến bội chi NSNN và các chỉ tiêu an toàn nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia trong năm 2021 – báo cáo cho hay.

Theo kịch bản về dư nợ công năm 2022 theo báo cáo của Chính phủ tới Đại biểu Quốc hội, dự báo đến cuối năm 2022 nợ công khoảng 43-44%% GDP, nợ Chính phủ khoảng 40-41% GDP, nợ nước ngoài của quốc gia khoảng 40-41% GDP; nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ so với thu NSNN khoảng 21-22%.

Cụ thể, dư nợ công đến cuối năm 2022 sẽ vào khoảng 4.073 triệu tỷ đồng, bình quân hơn 40 triệu/đầu người, tăng gần 3 triệu đồng so với năm 2021. Trong đó, nợ Chính phủ là 3.736 nghìn tỷ; Nợ được Chính phủ bảo lãnh 297 nghìn tỷ.

Mỗi đứa trẻ tại việt nam gánh bao nhiêu nợ năm 2024

Nợ công/GDP đến cuối năm 2021 ước đạt 43,7%. (Tổng hợp: L.T)

Rủi ro đảo nợ của Chính phủ có thể gia tăng

Đánh giá về công tác quản lý nợ công, báo cáo nêu rõ, với sự điều hành quyết liệt của Chính phủ, công tác quản lý, huy động và trả nợ công, nợ Chính phủ trong năm 2021 bám sát các mục tiêu, nhiệm vụ về quản lý nợ công theo các Nghị quyết của Quốc hội.

Kết quả, các chỉ tiêu an toàn nợ được kiểm soát chặt chẽ, nằm trong giới hạn được Quốc hội phê chuẩn; thực hiện thanh toán trả nợ đầy đủ, đúng hạn đảm bảo nghĩa vụ đã cam kết với các chủ nợ, công tác đánh giá hệ số tín nhiệm quốc gia có nhiều cải thiện.

Đồng thời,cơ cấu nợ Chính phủ tiếp tục có chuyển biến tích cực, góp phần đảm bảo an ninh tài chính quốc gia.

Mỗi đứa trẻ tại việt nam gánh bao nhiêu nợ năm 2024

Rủi ro đảo nợ của Chính phủ có thể gia tăng. (Ảnh: TBKD)

Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn có nhiều vấn đề cần lưu ý.

Thứ nhất, việc giải ngân vốn đầu tư công, trong đó có nguồn vốn vay ODA và vay ưu đãi nước ngoài của Chính phủ, tiếp tục chậm, xuất phát từ nguyên nhân khách quan, bất khả kháng từ việc giãn cách các địa phương, vùng động lực của nền kinh tế (19 tỉnh, thành phố phía Nam, Hà Nội, Đà Nẵng... và các địa bàn bị ảnh hưởng bởi dịch).

Hai là, cơ chế huy động vốn thông qua đàm phán ký kết các hiệp định vay nước ngoài hiện nay có sự bất cập, nhất là sự hài hòa hóa giữa quy định pháp luật trong nước và chính sách của nhà tài trợ.

Theo đó, trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 tiếp tục diễn biến phức tạp ở Việt Nam và trên thế giới, việc đàm phán gặp nhiều khó khăn, ảnh hưởng tới tiến độ ký kết hiệp định mới.

Bên cạnh đó, cơ chế huy động vốn vay nước ngoài của Chính phủ hiện nay còn bất cập.

Ngoài ra, sự cứng nhắc trong quan điểm áp dụng pháp luật khi đàm phán các thỏa thuận vay song phương là một trở ngại lớn và khó đạt được sự thỏa thuận của các nhà tài trợ.

Ba là, nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ so với thu NSNN được Chính phủ điều hành, đảm bảo trong phạm vi mức trần Quốc hội phê duyệt, tuy nhiên trước áp lực huy động vốn tăng nhanh, rủi ro đảo nợ của Chính phủ có thể gia tăng.

Trường hợp nhiệm vụ huy động vốn vay của Chính phủ vượt quá khả năng hấp thu vốn của thị trường trong nước, để đảm bảo đủ nguồn huy động của Chính phủ có thể cần phải huy động thêm các nguồn vay trong nước có kỳ hạn ngắn hơn so với giai đoạn 2016-2020, bao gồm tăng vay từ nguồn ngân quỹ Nhà nước hoặc phát hành trái phiếu Chính phủ kỳ hạn ngắn 2-3 năm, theo đó các chỉ tiêu về nghĩa vụ trả nợ có khả năng tăng cao (do các khoản vay này sẽ đáo hạn ngay trong giai đoạn 2022-2025).

Việc huy động vốn vay với kỳ hạn ngắn cần được kiểm soát chặt chẽ, không để phát sinh rủi ro đảo nợ liên tục và đảm bảo chỉ tiêu kỳ hạn phát hành trái phiếu Chính phủ bình quân giai đoạn 2021-2025 từ 9-11 năm cũng như chỉ tiêu nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ không quá 25% so với tổng thu NSNN được Quốc hội phê duyệt.

Chi phí vay trong nước hiện tại đang ở mức phù hợp, tuy nhiên do tình hình kinh tế vĩ mô chưa thực sự ổn định, bị ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, xu hướng gia tăng lạm phát do tiềm ẩn nhiều rủi ro về gián đoạn chuỗi cung ứng và thiếu hụt nguồn cung nguyên vật liệu phục vụ sản xuất có khả năng làm tăng mặt bằng lãi suất phát hành trái phiếu Chính phủ, dẫn đến tăng chi phí huy động vốn của Chính phủ.

Đối với nợ nước ngoài, tiềm ẩn rủi ro chi phí vay kém thuận lợi trong bối cảnh khả năng tiếp cận các nguồn vốn ODA giai đoạn tới sẽ giảm và có thể phải sử dụng các công cụ nợ với điều kiện tiệm cận/theo thị trường.

Ngoài ra, việc đàm phán, ký kết và giải ngân vốn vay ODA, ưu đãi nước ngoài với tỷ lệ thấp như trong thời gian vừa qua do tác động từ đại dịch Covid-19, các vướng mắc về cơ chế chính sách, chất lượng chuẩn bị các dự án đầu tư công và khác biệt giữa thủ tục trong nước và nước ngoài sẽ đặt gánh nặng lên nguồn huy động chủ yếu là vay trong nước.

Mỗi công dân Việt Nam nợ công bao nhiêu?

(Dân trí) - Báo cáo quyết toán ngân sách Nhà nước năm 2021 cho thấy nợ công bình quân đầu người là 36,71 triệu đồng/người. Năm 2020, nợ công là 35,1 triệu đồng/người.

Việt Nam nợ nước ngoài bao nhiêu tỷ?

Nợ Chính phủ khoảng 3,7 triệu tỷ đồng, khoảng 36-37% GDP, giảm từ mức 38,7% GDP năm 2021. Về cơ cấu nợ của Chính phủ: đến cuối 2023, nợ trong nước chiếm 73% dư nợ Chính phủ, tăng từ mức 67% năm 2021. Nợ nước ngoài của quốc gia khoảng 3,8 triệu tỷ đồng, khoảng 37- 38% GDP, tương đương với mức 38,1% GDP năm 2021.

Ai nợ nhiều nhất Việt Nam?

Phân theo từng bên cho vay, chủ nợ song phương lớn nhất của Việt Nam vẫn là Nhật Bản với trên 264 nghìn tỷ đồng.

Trên vai mỗi người dân Việt Nam hiện đang gánh tiền nợ nước ngoài bao nhiêu kể cả bé số sinh )?

Nợ công hiện tương ứng với dân số Việt Nam, tính cả người già và em nhỏ, mỗi người phải gánh khoảng 21,5 triệu đồng. Hay nói cách khác, mỗi đứa trẻ được sinh ra ở giai đoạn này đã phải “cõng” hơn 1.000 USD nợ công.