Theo C Mác tiền chuyển hóa thành tư bản trong những điều kiện nào

Tiền là sản vật cuối cùng của lưu thông hàng hoá, đồng thời là hình thái xuất hiện đầu tiên của tư bản.

Theo C Mác tiền chuyển hóa thành tư bản trong những điều kiện nào

Tiền trong lưu thông hàng hóa giản đơn vận động theo công thức: H – T – H. Tiền trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa vận động theo công thức: T – H – T’.

Điểm giống nhau của hai công thức lưu thông nói trên là đều cấu thành bởi hai yếu tố hàng và tiền; đều chứa đựng hai hành vi đối lập nhau là mua và bán; đều biểu hiện quan hệ kinh tế giữa người mua và người bán.

Điểm khác nhau giữa hai công thức đó là: Lưu thông hàng hóa giản đơn bắt đầu bằng hành vi bán (H – T) và kết thúc bằng hành vi mua (T – H); điểm xuất phát và điểm kết thúc đều là hàng hóa, tiền chỉ đóng vai trò trung gian, mục đích là giá trị sử dụng. Ngược lại, lưu thông của tư bản bắt đầu bằng hành vi mua (T – H) và kết thúc bằng hành vi bán (H – T’); tiền vừa là điểm xuất phát, vừa là điểm kết thúc, còn hàng hóa đóng vai trò trung gian…Mục đích của lưu thông tư bản là giá trị, và giá trị lớn hơn. Tư bản vận động theo công thức T-H-T’, trong đó T’ = T + ∆T; ∆T là số tiền trội hơn được gọi là giá trị thặng dư và ký hiệu bằng m.

Còn số tiền ứng ra ban đầu với mục đích thu được giá trị thặng dư trở thành tư bản. Như vậy, tiền chỉ biến thành tư bản khi được dùng để mang lại giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Công thức:

T – H – T’ với T’ = T + m

Được gọi là công thức chung của tư bản. Mọi tư bản đều vận động như vậy nhằm mục đích mang lại giá trị thặng dư.

Như vậy, tư bản là tiền tự lớn lên hay giá trị sinh ra giá trị thặng dư.

Số tiền trội hơn (∆T) hay giá trị thặng dư (m) sinh ra từ đâu?

Thoạt nhìn, hình như giá trị thặng dư sinh ra trong lưu thông. Vậy có phải do bản chất của sự lưu thông đã làm cho tiền tăng thêm và do đó hình thành giá trị thặng dư hay không?

Nếu mua – bán ngang giá thì chỉ có sự thay đổi hình thái của giá trị: từ tiền thành hàng hoặc từ hàng thành tiền. Còn tổng số giá trị trong tay mỗi người tham gia trao đổi trước sau vẫn không thay đổi. Trong trường hợp trao đổi không ngang giá, hàng hóa có thể bán cao hơn hoặc thấp hơn giá trị. Nhưng, trong nền kinh tế hàng hóa, mỗi người sản xuất đều vừa là người bán, vừa là người mua.

Cái lợi mà họ thu được khi bán sẽ bù lại cái thiệt khi mua hoặc ngược lại. Trong trường hợp có những kẻ chuyên mua rẻ, bán đắt thì tổng giá trị toàn xã hội cũng không hề tăng lên, bởi vì số giá trị mà những người này thu được chẳng qua chỉ là sự ăn chặn, đánh cắp số giá trị của người khác mà thôi.

Như vậy lưu thông và bản thân tiền tệ trong lưu thông không hề tạo ra giá trị.

Nhưng nếu người có tiền không tiếp xúc gì với lưu thông, tức là đứng ngoài lưu thông thì cũng không thể làm cho tiền của mình lớn lên được.

“Vậy là tư bản không thể xuất hiện từ lưu thông và cũng không thể xuất hiện ở bên ngoài lưu thông. Nó phải xuất hiện trong lưu thông và đồng thời không phải trong lưu thông”. Đó là mâu thuẫn của công thức chung của tư bản. C.Mác là người đầu tiên phân tích và giải quyết mâu thuẫn đó bằng lý luận về hàng hóa sức lao động.

Theo C Mác tiền chuyển hóa thành tư bản trong những điều kiện nào
Hình minh họa. Sự chuyển hóa tiền thành tư bản

Để giải quyết mâu thuẫn của công thức chung của tư bản, cần tìm trên thị trường một loại hàng hóa mà việc sử dụng nó có thể tạo ra được giá trị lớn hơn giá trị của bản thân nó. Hàng hóa đó là hàng hóa sức lao động.

Sức lao động là toàn bộ những năng lực (thể lực và trí lực) tồn tại trong một con người và được người đó sử dụng vào sản xuất.

Sức lao động là cái có trước, còn lao động chính là quá trình sử dụng sức lao động.

Trong mọi xã hội, sức lao động là yếu tố của sản xuất, nhưng sức lao động chỉ trở thành hàng hóa khi có hai điều kiện sau đây:

Thứ nhất, người lao động phải được tự do về thân thể, có quyền sở hữu sức lao động của mình và chỉ bán sức lao động ấy trong một thời gian nhất định.

Thứ hai, người lao động không có tư liệu sản xuất cần thiết để tự mình đứng ra tổ chức sản xuất nên muốn sống chỉ còn cách bán sức lao động cho người khác sử dụng.

Việc sức lao động trở thành hàng hóa đánh dấu một bước ngoặt cách mạng trong phương thức kết hợp người lao động với tư liệu sản xuất, là một bước tiến lịch sử so với chế độ nô lệ và phong kiến. Sự bình đẳng về hình thức giữa người sở hữu sức lao động với người sở hữu tư bản che đậy bản chất của chủ nghĩa tư bản – chế độ được xây dựng trên sự đối kháng lợi ích kinh tế giữa tư bản và lao động.

Giống như mọi hàng hóa khác, hàng hóa sức lao động cũng có hai thuộc tính: giá trị và giá trị sử dụng.

Giá trị của hàng hóa sức lao động cũng do số lượng lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tái sản xuất ra nó quyết định. Giá trị sức lao động được quy về giá trị của toàn bộ các tư liệu sinh hoạt cần thiết để sản xuất và tái sản xuất sức lao động, để duy trì đời sống của công nhân làm thuê và gia đình họ.

Giá trị hàng hóa sức lao động khác với hàng hóa thông thường ở chỗ nó bao hàm cả yếu tố tinh thần và yếu tố lịch sử, phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử của từng nước, từng thời kỳ, phụ thuộc vào trình độ văn minh đã đạt được, vào điều kiện lịch sử hình thành giai cấp công nhân và cả điều kiện địa lý, khí hậu.

Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động thể hiện ở quá trình tiêu dùng (sử dụng) sức lao động, tức là quá trình lao động để sản xuất ra một hàng hóa, một dịch vụ nào đó.

Trong quá trình lao động, sức lao động tạo ra một lượng giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân nó; phần giá trị dôi ra so với giá trị sức lao động là giá trị thặng dư.

Đó chính là đặc điểm riêng có của giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động. Đặc điểm này là chìa khoá để giải quyết mâu thuẫn trong công thức chung của tư bản đã trình bày ở trên.

I. SỰ CHUYỂN HOÁ CỦA TIỀN THÀNH TƯ BẢN

1.1. Công thức chung của tư bản và mâu thuẫn của nó.

1.1.1. Công thức chung:Tiền là sản phẩm của lưu thông hàng hoá đồng thời cũng là hình thức biểu hiện đầu tiên của tư bản. Tiền, bản thân nó không phải lúc nào cũng là tư bản, song tư bản được biểu hiện trước hết bằng một số tiền nhất định.+ Với tư cách là tiền trong lưu thông hàng hoá giản đơn, tiền vận động theo công thức: H - T - H (1)+ Còn với tư cách là tư bản, tiền vận động theo công thức:So sánh sự vận động của hai công thức trên: T - H - T (2)- Giống nhau:• Bao gồm 2 nhân tố vật chất là tiền và hàng (T - H)• Bao gồm 2 hành vi mua – bán vừa thống nhất, vừa đối lập- Khác nhau:

• Trình tự của hành vi mua- bán: (1) bán trước - mua sau (2) mua trước - bán sau

• Điểm xuất phát và điểm kết thúc: (1) H 1 – H 2 Giống nhau về giá trị; khác nhau về giá trị sử dụng (2) T 1 – T 2 → sự vận động chỉ có ý nghĩa khi T 2 > T 1 dođó, công thức lưu thông tư bản viết lại đầy đủ là: T – H – T’ và khi ấy tiền ở điểm xuất phát mang hình thái tư bản.Vậy: tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư, tiền bỏ vào lưu thông mang hình thái tư bản.• Mục đích của sự vận động: (1) là nhằm vào gía trị sử dụng khác với giá trị sử dụng ban đầu. (2) nhằm vào giá trị tăng thêm.

• Giới hạn của sự vận động: (1) sự vận động có giới hạn. (2) sự vận động là vô tận.

1.1.2. Mâu thuẫn của công thức chung.Giá trị thặng dư vừa tăng lên trong lưu thông, lại vừa không phải sinh ra ở trong lưu thông.“Vậy, tư bản không thể xuất hiện từ trong lưu thông và cũng không thể xuất hiện ở bên ngoài lưu thông. Nó phải xuất hiện trong lưu thông đồng thời không phải trong lưu thông”. Mác là người đầu tiên phân tích và giải quyết mâu thuẫn đó bằng lý luận khoa học.Vậy, lưu thông có thực sự tạo ra giá trị và giá trị tăng thêm?Lưu thông có hai trường hợp:Trao đổi ngang giá, lưu thông không hề tạo ra giá trị.Trao đổi không ngang giá, có 3 trường hợp:- Bán cao hơn giá trị, được lợi khi bán và bị thiệt khi mua.- Mua thấp hơn giá trị, được lợi khi mua và bị thiệt khi bán.- Vừa mua rẻ, vừa bán đắt, tổng giá trị trong lưu thông không hề tăng lên. Vậy, lưu thông và bản thân tiền trong lưu thông không tạo ra giá trị và giá trị thặng dư.Theo Mác, phải lấy quy luật nội tại của công thức chung làm cơ sở để giải thích sự chuyển hoá của tiền thành tư bản, lấy việc trao đổi ngang giá để phân tích lưu thông.

Mác xem xét sự chuyển hoá của tiền thành tư bản vừa ở trong lưu thông, vừa không ở trong lưu thông. Vậy, hàng hóa mà nhà tư bản mua được chỉ có thể là một hàng hoá đặc biệt - hàng hoá sức lao động.

Theo C Mác tiền chuyển hóa thành tư bản trong những điều kiện nào
1.2. Hàng hoá sức lao động:

1.2.1. Điều kiện để biến sức lao động thành hàng hoá.Sức lao động là toàn bộ năng lực (bao gồm thể lực và trí lực) tồn tại trong một con người và được sử dụng vào việc sản xuất hàng hoá. Sức lao động là khả năng lao động của một con người. Sức lao động biến thành hàng hoá khi có 2 điều kiện:+ Người lao động phải được tự do chi phối sức lao động, là người có quyền sở hữu năng lực lao động của mình, có quyền bán sức lao động (chỉ trong một thời gian nhất định).+ Người lao động bị tước đoạt hết hoặc không có tư liệu sản xuất, không có điều kiện để tự sinh sống, muốn lao động để có thu nhập, họ buộc phải bán sức lao động của mình cho người khác sử dụng - tức là đi làm thuê.

Sức lao động trở thành hàng hoá đã đánh dấu một bước ngoặt trong phương thức kết hợp giữa tư liệu sản xuất và sức lao động, một bước tiến lịch sử so với lao động trước đó.

1.2.2. Hai thuộc tính của hàng hoá sức lao động:- Giá trị của hàng hoá sức lao động: là số lượng lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tái sản xuất ra hàng hoá sức lao động quyết định. Sức lao động tồn tại trong cơ thể sống của con người.+ Vậy, giá trị hàng hoá sức lao động đo bằng toàn bộ giá trị các tư liệu sinh hoạt cần thiết để sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động.+ Lượng giá trị giá trị sức lao động đo bằng lượng các tư liệu sinh hoạt cần thiết bao gồm:• Giá trị các tư liệu sinh hoạt cần thiết để duy trì và thay thế sức lao động của con người (tức đủ nuôi sống công nhân và gia đình công nhân).• Chi phí đào tạo công nhân tuỳ theo tính chất phức tạp của lao động.Hàng hoá sức lao động có tính chất đặc biệt, lượng giá trị hàng hoá sức lao động bao hàm cả yếu tố lịch sử và tinh thần; nhu cầu về giá trị tư liệu sinh hoạt thay đổi theo điều kiện tự nhiên và khí hậu. Quy mô nhu cầu thiết yếu và phương thức thoả mãn nhu cầu đó phản ánh quá trình phát triển lâu dài của lịch sử, phụ thuộc vào trình độ văn minh đạt được, thói quen, tập quán của mỗi vùng, mỗi Quốc gia.+ Giá trị sức lao động biểu hiện bằng tiền gọi là giá cả sức lao động - hay gọi là tiền lương. Hai xu hướng đối lập của tiền lương ảnh hưởng đến giá trị hàng hoá sức lao động: vừa tăng lên, vừa giảm xuống.- Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động: Giống hàng hoá thông thường, hàng hoá sức lao động thoả mãn nhu cầu người mua. Công dụng của nó biểu hiện qua tiêu dùng hàng hoá sức lao động, chính là tiến hành quá trình lao động. Quá trình lao động đồng thời là quá trình sản xuất ra hàng hoá, sức lao động tạo ra một giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân nó. Phần giá trị lớn hơn được gọi là giá rị thặng dư bị nhà tư bản chiếm đoạt.Hàng hoá sức lao động có đặc điểm riêng biệt, là nguồn gốc trực tiếp tạo ra giá trị thặng dư, chìa khoá để giải quyết mâu thuẫn công thức chung của tư bản.

Hàng hoá sức lao động là điều kiện của sự bóc lột chứ không phải là cái quyết định có hay không có bóc lột.

1.2.3. Tiền công dưới chủ nghĩa tư bản:- Bản chất tiền công dưới CNTB: Phân biệt phạm trù sức lao động và lao động.- Hình thức trả tiền công cơ bản: trả công theo thời gian và trả công theo sản phẩmƯu việt của tiền công theo sản phẩm:(1) Giúp cho các nhà quản lý giám sát LĐ của CN. (2) Kích thích công nhân tích cực lao động.

- Phân biệt tiền công danh nghĩa và tiền công thực tế.