Top 5 vận động viên route nfl 2022 năm 2023

Luka Modric

Top 5 vận động viên route nfl 2022 năm 2023

Modrić năm 2021

Thông tin cá nhân
Tên đầy đủ Cụ Chanh Vắt Mãi Không Hết[1]
Ngày sinh 9 tháng 9, 1985 (37 tuổi)[2]
Nơi sinh Zadar, Nam Tư
Chiều cao 1,72 m (5 ft 8 in)
Vị trí Tiền vệ
Thông tin câu lạc bộ

Đội hiện nay

Real Madrid
Số áo 10
Sự nghiệp cầu thủ trẻ
1996–2000 NK Zadar
2000–2003 Dinamo Zagreb
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp*
Năm Đội ST (BT)
2003–2008 Dinamo Zagreb 94 (26)
2003–2004 → Zrinjski Mostar (mượn) 22 (8)
2004–2005 → Inter Zaprešić (mượn) 18 (4)
2008–2012 Tottenham Hotspur 127 (15)
2012– Real Madrid 280 (20)
Đội tuyển quốc gia‡
2001 U-15 Croatia 2 (0)
2001 U-17 Croatia 2 (0)
2003 U-18 Croatia 7 (0)
2003–2004 U-19 Croatia 11 (1)
2004–2005 U-21 Croatia 15 (2)
2006– Croatia 162 (23)

Thành tích

Bóng đá nam
Đại diện cho
Top 5 vận động viên route nfl 2022 năm 2023
 
Croatia
FIFA World Cup
Á quân Nga 2018
Top 5 vận động viên route nfl 2022 năm 2023
Qatar 2022

* Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ chuyên nghiệp chỉ được tính cho giải quốc gia và chính xác tính đến 8 tháng 1 năm 2022
‡ Số trận ra sân và số bàn thắng ở đội tuyển quốc gia chính xác tính đến 17 tháng 12 năm 2022

Luka Modrić (phát âm tiếng Croatia: [lûːka mǒːdritɕ];[3][4] sinh ngày 9 tháng 9 năm 1985) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Croatia hiện đang thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Real Madrid tại La Liga và là đội trưởng của đội tuyển quốc gia Croatia. Vị trí sở trường của anh là tiền vệ trung tâm, nhưng anh còn có thể thi đấu ở vị trí tiền vệ tấn công hoặc tiền vệ phòng ngự. Anh được coi là một trong những tiền vệ xuất sắc nhất mọi thời đại.[nb 1]

Sinh ra tại Zadar,[5] thời thơ ấu của Modrić gắn liền với Chiến tranh Croatia khiến gia đình anh phải di cư đến nơi khác.[6] Năm 2002, anh được Dinamo Zagreb ký hợp đồng ở tuổi 16, sau khi rời đội trẻ câu lạc bộ quê hương của anh NK Zadar. Anh tiếp tục phát triển ở Zagreb, trước khi được cho mượn đến Zrinjski Mostar và Inter Zaprešić. Anh ra mắt Dinamo vào năm 2005 và giành được ba chức vô địch quốc gia và cúp quốc nội liên tiếp, được vinh danh là Cầu thủ xuất sắc nhất của Prva HNL vào năm 2007. Năm 2008, anh chuyển đến câu lạc bộ Tottenham Hotspur với phí chuyển nhượng kỷ lục câu lạc bộ là 16,5 triệu bảng, nơi anh ấy dẫn dắt Spurs lần đầu tiên xuất hiện UEFA Champions League sau gần 50 năm, lọt vào tứ kết của giải đấu.

Vào mùa hè năm 2012, Modrić gia nhập Real Madrid với mức phí chuyển nhượng 30 triệu bảng. Ở đó, anh ấy trở thành cầu thủ đóng góp quan trọng và giúp đội hoàn thành giấc mơ La Décima sau nhiều năm chờ đợi và được chọn vào Đội hình tiêu biểu của UEFA Champions League mùa giải 2013–14. Sau khi Zinedine Zidane tiếp quản Madrid, Modrić rất quan trọng trong đội hình giành ba chức vô địch Champions League liên tiếp từ 2015–16 đến 2017–18. Anh ấy đã giành được mười bảy danh hiệu lớn tại Real Madrid, bao gồm năm danh hiệu UEFA Champions League, hai danh hiệu La Liga, một Copa del Rey và ba danh hiệu FIFA Club World Cup. Anh ấy đã giành được Giải thưởng Tiền vệ xuất sắc nhất La Liga vào năm 2016 lần thứ hai và UEFA Club Football Award cho "Tiền vệ xuất sắc nhất" trong Năm 2017 và 2018. Năm 2015, anh trở thành cầu thủ Croatia đầu tiên góp mặt trong FIFA FIFPro World XI, trong đó anh thường xuyên được đưa vào danh sách UEFA Team Of The Year từ năm 2016 đến năm 2018. Năm 2018, Modrić trở thành cầu thủ Croatia đầu tiên giành được Giải thưởng Cầu thủ nam xuất sắc nhất năm của UEFA, và nhờ giành danh hiệu FIFA The Best với Quả bóng vàng châu Âu,[7] anh trở thành cầu thủ đầu tiên ngoài Lionel Messi hoặc Cristiano Ronaldo giành được danh hiệu này trong hơn một thập kỷ. Năm 2019, anh đã được trao giải Golden Foot cho cả sự nghiệp và nhân cách của anh.

Modrić có trận ra mắt quốc tế cho Croatia trong trận đấu với Argentina vào tháng 3 năm 2006 và ghi bàn thắng quốc tế đầu tiên trong trận giao hữu với Ý. Modrić là một nhân tố của "Thế hệ vàng thứ hai", tham gia vào mọi giải đấu lớn mà Croatia đã vượt qua vòng loại, bao gồm European Championship các năm 2008, 2012, 2016 và 2020, cũng như FIFA World Cup 2006, 2014 và 2018. Tại Euro 2008, anh được chọn vào Team of the Tournament, trở thành người Croatia thứ hai từng đạt được vinh dự này. Sau khi bị loại ở vòng bảng trong hai kỳ World Cup đầu tiên của mình, Modrić đã dẫn dắt Croatia đến Chung kết FIFA World Cup 2018 và anh ấy đã nhận được giải thưởng Golden Ball cho cầu thủ xuất sắc nhất của giải đấu. Vào tháng 3 năm 2021, anh tiếp tục trở thành cầu thủ khoác áo đội tuyển quốc gia Croatia nhiều nhất trong lịch sử. Hơn nữa, anh ấy đã được vinh danh Cầu thủ xuất sắc nhất năm của Croatia kỷ lục 9 lần từ năm 2007 đến năm 2020.[8]

Tuổi thơ[sửa | sửa mã nguồn]

Luka Modrić sinh ra trong một gia đình nông dân sở hữu một đàn dê, cha là Stipe Modrić, sống tại vùng núi Velebit cao và hiểm trở bậc nhất Croatia. Vào đầu những năm 90, nhà làm phim Pavle Balenović đã thực hiện một bộ phim tài liệu cho đài BBC. Trong quá trình làm phim, ông đi qua vùng núi này và gặp Stipe Modrić với đàn dê ấy cùng con trai ông, Luka Modrić. Trong đoạn phim, cậu bé Luka Modrić mới 5 tuổi, mặc chiếc áo quá khổ, cầm gậy theo cha chăn đàn dê giữa ánh mắt thèm khát của những con sói. Chiến tranh nổ ra ít lâu sau đó, gia đình Modrić phải ly tán. Những năm tháng vất vả, luôn phải đối mặt với cái chết giúp cho Luka Modrić có một tinh thần thép và bản lĩnh.

Sự nghiệp câu lạc bộ[sửa | sửa mã nguồn]

Dinamo Zagreb[sửa | sửa mã nguồn]

Modrić ký hợp đồng thi đấu cho Dinamo Zagreb ở tuổi 17 vào năm 2002,[9] nhưng sau một mùa bóng, năm 2003, anh được đem cho Zrinjski Mostar, một câu lạc bộ ở Bosnia và Herzegovina mượn và ở tuổi 18 anh trở thành cầu thủ xuất sắc nhất trong năm của Giải vô địch bóng đá quốc gia Bosnia và Herzegovina. Mùa giải tiếp theo anh tiếp tục được cho mượn tại Inter Zaprešić và anh chơi một mùa giải tại đây và cùng câu lạc bộ này giành vị trí thứ hai. Anh cũng nhận danh hiệu cầu thủ trẻ triển vọng nhất của bóng đá Croatia năm 2004 và 2005 và được gọi trở lại Dinamo Zagreb. Tại Zagreb, Modrić đã cùng câu lạc bộ giành chức vô địch giải quốc gia ba năm liên tiếp.[10] Năm 2007, anh nhận danh hiệu Cầu thủ xuất sắc nhất giải vô địch bóng đá Croatia.[11] Modrić sau đó ký hợp đồng 10 năm với Dinamo Zagreb đến năm 2015.

Khả năng của Modrić ngày càng được nâng cao dưới màu áo Dinamo Zagreb. Sở trường của anh là vị trí tiền vệ trung tâm và anh còn là cầu thủ dẫn dắt lối chơi của đội. Từ đó, nhiều câu lạc bộ nổi tiếng ở giải Premier League như Arsenal, Chelsea và Newcastle quan tâm đến anh và họ lần lượt đề nghị những mức chuyển nhượng hấp dẫn. Nhưng cuối cùng Modrić đã chuyển đến thi đấu cho Tottenham Hotspur.

Tottenham Hotspur[sửa | sửa mã nguồn]

2008-2018[sửa | sửa mã nguồn]

Modrić đồng ý gia nhập Tottenham vào ngày 26 tháng 4 năm 2008 sau cuộc kiểm tra y tế và được cấp giấy phép lao động. Anh là bản hợp đồng đầu tiên trong kì chuyển nhượng hè 2008 của Tottenham cũng như của giải Premier League. Bản hợp đồng của anh kéo dài 6 năm và phí chuyển nhượng là 15,8 triệu bảng Anh.

Modrić có trận đầu tiên cho Tottenham vào ngày 28 tháng 7 năm 2008 trong trận giao hữu trước mùa giải gặp Norwich City. Anh chơi 45 phút tại Carrow Road trong chiến thắng 5-1 của Tottenham.[12] Trận đầu tiên tại giải Ngoại hạng Anh 2008-2009 của Modrić là trận gặp Middlesbrough tại sân Riverside vào ngày 16 tháng 8. Trong trận này Tottenham thua 2-1.[13]

Sau những thành tích tệ hại đầu mùa, huấn luyện viên Juande Ramos bị sa thải và thay thế bằng Harry Redknapp. Dưới sự dẫn dắt của tân huấn luyện viên, Modrić đóng vai trò tiền vệ công kiến tạo cơ hội ghi bàn cho cặp tiền đạo Darren Bent và Roman Pavlyuchenko.[14] Ngày 6 tháng 11, anh đã có dịp đối đầu với câu lạc bộ cũ Dynamo Zagreb tại cúp UEFA và chính anh là người đã chuyền bóng để Darren Bent mở tỉ số trong chiến thắng 4-0. Ngày 18 tháng 12]], anh ghi bàn đầu tiên cho Tottenham trong trận hòa 2-2 với Spartak Moskva của Nga trong khuôn khổ UEFA Cup.[15] Anh có bàn thắng đầu tiên tại Premier League vào lưới Newcastle United 3 ngày sau đó, trận đấu mà Tottenham đã để thua 1-2.[16] Ngày 26 tháng 4 năm 2009, Modric ghi bàn thắng nâng tỉ số lên 2-0 cho Tottenham trong trận gặp Manchester United nhưng sau đó đội bóng của anh đã bị thua ngược 5-2.[17]

2009-2010[sửa | sửa mã nguồn]

Modrić và các đồng đội đã có sự khởi đầu rất thuận lợi ở Premier League 2009-10 với chuỗi 4 trận đầu tiên toàn thắng. Thế nhưng trong trận thắng 2-1 trước Birmingham City, sau pha vào bóng của Lee Bowyer, Modric đã bị chấn thương nặng và buộc phải ra sân ở phút 49, thay bằng tiền đạo Peter Crouch. Kết quả chụp X quang sau đó cho thấy anh bị gãy xương mác chân phải. Theo kết quả xét nghiệm, anh sẽ phải nghỉ thi đấu ít nhất 6 tuần lễ. Anh cũng đã phải lên tiếng thừa nhận rằng chấn thương đang ngăn cản mình thi đấu những trận quan trọng cho câu lạc bộ và cả đội tuyển quốc gia. "Tôi thường xuyên là nạn nhân của những pha vào bóng nguy hiểm. Chấn thương đang làm hại tôi khi không thể thi đấu nhiều trên sân cỏ. Cứ đà này tôi sẽ mất phong độ vì luôn phải tập luyện trong phòng hồi phục thể lực".

Ngày 29 tháng 12, Modrić đánh dấu sự trở lại sau 4 tháng nghỉ thi đấu với bàn thắng mở tỉ số trong chiến thắng 2-0 trước West Ham United, qua đó giúp Tottenham giành lấy vị trí tốp 4 từ tay Aston Villa.[18] Ngày 28 tháng 2 năm 2010, Modric đã ghi bàn vào lưới Everton nâng tỉ số lên 2-0 bằng một cú lốp bóng điệu nghệ. Chung cuộc Tottenham hòa 2-2 và tiếp tục đứng ở vị trí thứ 4.

Ngày 30 tháng 5 năm 2010, Modrić đã ký vào bản hợp đồng mới có thời hạn 6 năm, giúp anh gắn bó với Tottenham đến năm 2016.[19]

2010-2011[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 11 tháng 9, anh có bàn thắng đầu tiên trong mùa giải 2010-11 khi ghi bàn mở tỉ số trong trận hoà 1-1 với West Brom ở phút 27. Tuy nhiên chỉ năm phút sau anh đã phải tập tễnh rời sân do chấn thương mắt cá chân tuy nhiên sau đó chấn thương này đã không nặng như dự đoán ban đầu là phải nghỉ thi đấu vài tháng.[20][21] Ngày 24 tháng 11, anh có bàn thắng đầu tiên trong sự nghiệp tại UEFA Champions League với bàn thắng nâng tỉ số lên 2-0 trong chiến thắng 3-0 trước Werder Bremen, giúp Tottenham chính thức lọt vào vòng 1/16 và anh cũng được Goal.com bầu là cầu thủ xuất sắc nhất trận đấu.[22] Vào cuối mùa giải này, Modrić đã được bầu chọn là Cầu thủ xuất sắc nhất mùa bóng của Tottenham Hotspur.

Real Madrid[sửa | sửa mã nguồn]

2012–13[sửa | sửa mã nguồn]

Modrić thi đấu cho Real Madrid năm 2013.

Ngày 27 tháng 8 năm 2012, Real Madrid thông báo đã đạt được thỏa thuận với Tottenham về vụ chuyển nhượng Modrić. Phí chuyển nhượng là 33 triệu £ với bản hợp đồng có thời hạn 5 năm. Vụ chuyển nhượng này cũng đã thiết lập mối quan hệ hợp tác mới giữa hai câu lạc bộ.[23][24]

Ngày 29 tháng 8 năm 2012, anh có trận đấu đầu tiên cho Real Madrid trong trận lượt về Siêu cúp Tây Ban Nha với Barcelona. Modrić vào sân ở phút 83 thay cho Mesut Özil và suýt ghi bàn. Chung cuộc Real thắng 2-1 và anh có được danh hiệu đầu tiên cùng Real Madrid.[25] Ngày 3 tháng 11 năm 2012, Modrić ghi bàn thắng đầu tiên cho Real Madrid trong chiến thắng 4-0 trước Real Zaragoza.[26]

Ngày 5 tháng 3 năm 2013, Modrić sau khi vào sân thay Aberloa đã ghi một siêu phẩm vào lưới Manchester United F.C. ngay tại Old Trafford qua đó giúp Real Madrid C.F. cân bằng tỷ số trước khi Cristiano Ronaldo mang về bàn thắng quyết định đưa họ vượt qua Manchester United với tỷ số 2-1 (tổng tỷ số là 3-2 sau 2 lượt trận) qua đó ghi tên mình vào vòng tứ kết UEFA Champions League. Đến ngày 16 tháng 3, anh có một pha lập công đẹp mặt khác cho Real Madrid trong chiến thắng 5-2 trước Real Mallorca với một cú volley từ hơn 25 mét.[27][28]

Modrić có mặt trong cả hai trận đấu lượt đi và về Champions League với Borussia Dortmund. Trong trận lượt đi, anh thi đấu ở vị trí tiền vệ tấn công nhưng mờ nhạt và Real thua 4–1. Đến trận lượt về, anh thi đấu ở vị trí thấp hơn và có nhiều đường chuyền tạo cơ hội cho đồng đội, được đánh giá là một trong những cầu thủ thi đấu tốt nhất.[29][30][31][32] Từ tháng 3 năm 2013, phong độ Modrić được cải thiện và anh là cầu thủ có số đường chuyền thành công nhiều nhất đội.[33] Ngày 8 tháng 5, anh kiến tạo bàn mở tỉ số và ghi bàn thắng thứ năm trong chiến thắng 6-2 trước CD Málaga.[34][35][36]

2013–14[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi huấn luyện viên Carlo Ancelotti đến Real, Modrić thường xuyên được xếp đá chính[37] và trở thành một nhân tố quan trọng ở tuyến giữa, giúp Real gặt hái được nhiều thành công trong mùa giải. Anh có bàn thắng đầu tiên trong mùa giải tại trận đấu với F.C. Copenhagen trong khuôn khổ Champions League. Đây cũng là bàn thắng thứ năm của anh cho Real và cả năm bàn thắng đều được ghi từ ngoài vòng cấm địa.[38] Ngày 16 tháng 2, anh có pha lập công đầu tiên tại La Liga 2013-14.[39] Modrić cùng Real giành chức vô địch Copa del Rey 2013–14 sau chiến thắng 2-1 trước FC Barcelona. Trong trận bán kết lượt đi UEFA Champions League với Bayern Munich, anh đã có màn trình diễn vô cùng xuất sắc, giúp Real đánh bại đội bóng nước Đức với tỉ số 1-0.[40] Trong trận lượt về cũng là trận đấu thứ 100 của anh trong màu áo Real Madrid[41], anh đã kiến tạo cho bàn mở tỉ số của Sergio Ramos và chung cuộc Real giành thắng lợi 4-0 và lọt vào trận chung kết.[42] Ngày 24 tháng 5, trong trận chung kết UEFA Champions League 2013-14 với Atlético Madrid được tổ chức trên Sân vận động Ánh sáng, Lisbon, Bồ Đào Nha, Modrić chính là người đã thực hiện quả phạt góc ở phút thứ 93 tạo điều kiện cho Sergio Ramos đánh đầu gỡ hòa 1-1. Sau đó, trong hiệp phụ, Real ghi thêm ba bàn thắng nữa và chính thức có được danh hiệu vô địch Champions League lần thứ mười (la Décima) trong lịch sử.[43][44] Anh có tên trong đội hình tiêu biểu của UEFA Champions League mùa giải này[45] và sau đó còn được chọn là Tiền vệ xuất sắc nhất La Liga mùa bóng 2013-14.[46]

2014–15[sửa | sửa mã nguồn]

Modrić khởi đầu mùa giải mới với chức vô địch Siêu cúp bóng đá châu Âu sau chiến thắng trước Sevilla.[47] Ngày 27 tháng 9 năm 2014, anh có bàn thắng thứ 7 trong màu áo Real khi mở tỉ số trong chiến thắng 2-0 trước Villarreal và cả bảy bàn thắng đều đến từ những cú sút ngoài vòng cấm địa.[48] Vào cuối tháng 11, anh bị dính chấn thương đùi trong khi thi đấu cho đội tuyển Croatia và phải nghỉ thi đấu trong thời gian dài.[49]

Những chấn thương đã khiến anh không thể ra sân được nhiều trong mùa giải với khoảng 5 tháng phải rời xa sân cỏ trong suốt mùa.[50] Việc Modrić bị chấn thương được đánh giá là một trong những nguyên nhân làm chấm dứt chuỗi 22 trận bất bại đầu mùa giải của Real cũng như tham vọng vô địch La Liga và Champions League của đội bóng Tây Ban Nha.[51]

2015–16[sửa | sửa mã nguồn]

Top 5 vận động viên route nfl 2022 năm 2023
Modrić trong trận đấu vòng bảng UEFA Champions League 2015–16 với Shakhtar Donetsk vào tháng 11 năm 2015.

Đến mùa giải 2015-16, huấn luyện viên Ancelotti ra đi và huấn luyện viên mới Rafael Benítez tiếp tục trọng dụng Modrić cho vị trí chính thức.[52] Ngày 25 tháng 11 năm 2015, anh lập công trong chiến thắng 4-3 trước Shakhtar Donetsk tại vòng bảng UEFA Champions League 2015–16 giúp Real củng cố vị trí đầu bảng.[53]

2016-17[sửa | sửa mã nguồn]

Modrić kết thúc mùa giải với danh hiệu vô địch UEFA Champions League lần thứ hai liên tiếp và lần nữa có tên trong đội hinh xuất sắc nhất mùa giải của Champions League do UEFA công bố.[54]

2017-18[sửa | sửa mã nguồn]

Vào tháng 12, Modrić cùng với các đồng đội vô địch FIFA Club World Cup 2017 và cá nhân anh đoạt danh hiệu cầu thủ xuất sắc nhất giải đấu.[55] Cuối mùa giải, Real Madrid đăng quang UEFA Champions League lần thứ ba liên tiếp sau khi đánh bại Liverpool trong trận chung kết[56] và Modrić cũng lần thứ ba liên tiếp có tên trong đội hinh xuất sắc nhất mùa giải của Champions League do UEFA công bố.[57]

Sự nghiệp đội tuyển quốc gia[sửa | sửa mã nguồn]

Top 5 vận động viên route nfl 2022 năm 2023
Modrić trong một trận đấu cho đội tuyển Croatia vào năm 2013.

Modrić lần lượt thi đấu cho các đội U-17, U-19 và U-21 Croatia[58] trước khi được gọi vào đội tuyển quốc gia năm 2006 và có trận đầu tiên trong màu áo đội tuyển quốc gia là trận đấu với Argentina ngày 1 tháng 3 năm 2006 tại Basel, Thụy Sĩ. Tại Giải vô địch bóng đá thế giới 2006, giải đấu mà Croatia không vượt qua được vòng bảng, anh được vào sân trong hai trận vòng bảng gặp Nhật Bản và Úc. Anh ghi bàn thắng đầu tiên cho đội tuyển là trong trận thắng Ý 2-0 vào ngày 16 tháng 8 năm 2006 tại Livorno.

Tại Giải vô địch bóng đá châu Âu 2008, Modrić là niềm kì vọng lớn nhất của các cổ động viên Croatia. Trong trận đầu tiên gặp đội tuyến chủ nhà Áo ngày 8 tháng 6 năm 2008, Modrić là người ghi bàn thắng duy nhất của trận đấu từ chấm phạt đền ngay ở phút thứ 4 sau khi Ivica Olić bị René Aufhauser phạm lỗi trong vòng cấm.[59] Trận đấu tiếp theo gặp đội tuyển Đức ngày 12 tháng 6, anh không ghi được bàn nào nhưng đã góp phần giúp Croatia chiến thắng và giành danh hiệu Cầu thủ xuất sắc nhất trận đấu vào cuối trận.[60]

Tuy nhiên Croatia đã bị loại sau trận thua Thổ Nhĩ Kỳ trong loạt sút luân lưu trong đó có một pha sút hỏng của Modrić.[61] Khi giải đấu kết thúc, anh được chọn vào đội hình tiêu biểu của giải, là cầu thủ Croatia thứ hai được nhận vinh dự này sau tiền đạo Davor Šuker.[62]

Tại vòng loại World Cup 2010 khu vực châu Âu, Modrić đã có ba bàn thắng cho đội tuyển Croatia vào lưới Kazakhstan, Andorra và Ukraina nhưng Croatia đã không thể giành quyền tham dự World Cup 2010 do chỉ đứng thứ ba tại vòng loại sau Anh và Ukraine.

Tháng 6 năm 2012, Modrić có lần thứ hai trong sự nghiệp tham gia một kỳ Euro. Croatia nằm ở bảng C cùng với Tây Ban Nha, Ý và Cộng hòa Ireland. Đội tuyển Croatia đã bị loại sau vóng đấu bảng và cá nhân Modrić không để lại bất kỳ dấu ấn đáng kể nào.[63]

Tại World Cup 2014 ở Brasil, Modrić và các đồng đội tiếp tục phải dừng bước ở ngay vòng đấu bảng sau thất bại 1-3 trước México ở lượt đấu cuối cùng vòng bảng (trước đó đã thua Brasil 3-1 và thắng Cameroon 4-0).[64]

Tại trận đấu với Malta ở vòng loại Euro 2016, Modrić có được bàn thắng đầu tiên cho đội tuyển sau hơn ba năm ngay trong dịp sinh nhật lần thứ 29 của anh.[65] Một tháng sau, anh tiếp tục tỏa sáng với một bàn thắng trong trận thắng 6-0 trước Azerbaijan, giúp đội tuyển Croatia góp mặt tại Euro 2016.[66] Ngày 3 tháng 3 năm 2015, Modrić lần đầu tiên được chọn làm đội trưởng đội tuyển quốc gia cho trận đấu với Azerbaijan.[67]

Tại Euro 2016, anh chỉ ghi được một bàn thắng duy nhất trong chiến thắng 1-0 của Croatia trước Thổ Nhĩ Kỳ bằng một cú vô-lê từ khoảng cách 30 mét. Bàn thắng này giúp anh trở thành cầu thủ Croatia đầu tiên ghi bàn tại hai vòng chung kết Euro.[68]

World Cup 2018[sửa | sửa mã nguồn]

Modrić là người ghi bàn thắng mở tỉ số từ chấm phạt đền để giúp Croatia có chiến thắng đậm 4-1 trước Hy Lạp tại lượt đi vòng play-off World Cup 2018 khu vực châu Âu[69] và ba ngày sau đó, trận hòa 0-0 ở lượt về giúp Croatia có lần thứ năm giành quyền dự vòng chung kết World Cup.

Tại World Cup 2018, trong trận ra quân tại bảng D gặp Nigeria, Modrić đã ghi bàn thắng ấn định tỉ số 2-0 của trận đấu từ chấm phạt đền.[70] Trong lượt trận thứ hai vòng bảng gặp Argentina, anh có bàn thắng thứ hai tại giải đấu trong chiến thắng 3-0 trước đại diện Nam Mỹ với một cú sút xa đẹp mắt.[71]

Ở trận đấu vòng 16 đội với Đan Mạch, Modrić đá hỏng quả phạt đền ở hiệp phụ thứ hai khiến cho Croatia phải bước vào loạt sút luân lưu, nhưng sau đó anh đã chuộc lỗi thực hiện thành công lượt sút của mình để cùng các đồng đội đánh bại Đan Mạch vào tứ kết gặp chủ nhà Nga.[72] Đội tuyển Croatia sau đó lọt vào trận chung kết và giành ngôi á quân sau khi thất thủ 2-4 trước đội tuyển Pháp. Kết thúc giải đấu, anh được nhận giải thưởng cầu thủ xuất sắc nhất giải. Nhờ những màn trình diễn chói sáng, anh được xướng tên trong danh sách đội hình tiêu biểu nhất của World Cup 2018.

Euro 2020[sửa | sửa mã nguồn]

Tại Euro 2020, Modrić cũng chỉ có được một bàn thắng trong trận thắng 3-1 trước Scotland, giúp Croatia đứng nhì bảng D và lọt vào vòng 16 đội. Tuy nhiên một lần nữa, anh và các đồng đội phải dừng bước ở giải đấu này sau thất bại 3-5 trước Tây Ban Nha.

Đời tư[sửa | sửa mã nguồn]

Luka Modrić kết hôn với Vanja Bosnić vào tháng 5 năm 2010 tại thủ đô Zagreb của Croatia trong một buổi lễ riêng tư sau bốn năm hẹn hò,[73] và một năm sau đó tại nhà thờ.[74] Con trai của họ, Ivano Modrić sinh ngày 6 tháng 6 năm 2010.[75][76] Con gái đầu Ema Modrić, sinh ngày 25 tháng 4 năm 2013.[76][77] Con gái thứ hai Sofia Modrić, sinh ngày 2 tháng 10 năm 2017.[78] Khi không chơi bóng, Luka Modrić thường sống ẩn dật.[79]

Thống kê sự nghiệp[sửa | sửa mã nguồn]

Câu lạc bộ[sửa | sửa mã nguồn]

Số liệu thống kê chính xác tới ngày 22 tháng 5 năm 2021.

Câu lạc bộ Mùa giải Giải vô địch Cúp1Châu Âu2Tổng cộng
Trận Bàn Trận Bàn Trận Bàn Trận Bàn
Zrinjski Mostar (cho mượn)
2003–04 22 8 0 0 0 0 22 8
Inter Zaprešić (cho mượn)
2004–05 18 4 0 0 0 0 18 4
GNK Dinamo Zagreb
2004–05 7 0 1 0 0 0 8 0
2005–06 32 8 1 0 0 0 33 15
2006–07 30 6 8 2 6 0 44 8
2007–08 25 13 8 1 10 3 43 17
Tổng cộng 942718316312833
Tottenham Hotspur
2008–09 34 3 6 1 4 1 44 5
2009–10 25 3 7 0 0 0 32 3
2010–11 32 3 2 0 9 1 43 4
2011–12 36 4 2 0 2 1 40 5
Tổng cộng 1271317115315917
Real Madrid
2012–13 33 3 9 0 11 1 53 4
2013–14 34 1 6 0 11 1 51 2
2014–15 16 1 2 0 7 0 25 1
2015–16 32 2 0 0 11 1 43 3
2016–17 25 1 2 0 14 0 41 1
2017–18 26 1 3 0 14 1 43 2
2018–19 34 3 3 0 9 1 46 4
2019–20 31 3 3 1 6 1 40 5
2020–21 35 5 1 0 12 1 48 6
Tổng cộng 2662029196739128
Tổng cộng sự nghiệp530716451271372189

1 Bao gồm các cúp như Croatian Cup, Croatian Supercup, FA Cup, Football League Cup, Copa del Rey và Supercopa de España.

2 Bao gồm UEFA Super Cup và FIFA Club World Cup.

Đội tuyển quốc gia[sửa | sửa mã nguồn]

Tính đến ngày 17 tháng 12 năm 2022.
Đội tuyển quốc gia Croatia
NămSố lần ra sânSố bàn thắng
2006 12 2
2007 10 1
2008 11 3
2009 3 1
2010 8 0
2011 9 1
2012 9 0
2013 10 0
2014 11 2
2015 4 0
2016 8 1
2017 8 1
2018 15 2
2019 12 2
2020 3 0
2021 13 4
2022 16 3
Tổng cộng16223

Bàn thắng cho đội tuyển quốc gia[sửa | sửa mã nguồn]

# Ngày Địa điểm Đối thủ Bàn thắng Kết quả Giải đấu
1. 16 tháng 8 năm 2006 Sân vận động Armando Picchi, Livorno, Ý
Top 5 vận động viên route nfl 2022 năm 2023
 
Ý
0–2 0–2 Giao hữu
2. 7 tháng 10 năm 2006 Sân vận động Maksimir, Zagreb, Croatia
Top 5 vận động viên route nfl 2022 năm 2023
 
Andorra
7–0 7–0 Vòng loại Euro 2008
3. 7 tháng 2 năm 2007 Sân vận động Kantrida, Rijeka, Croatia
Top 5 vận động viên route nfl 2022 năm 2023
 
Na Uy
2–0 2–1 Giao hữu
4. 8 tháng 6 năm 2008 Sân vận động Ernst Happel, Viên, Áo
Top 5 vận động viên route nfl 2022 năm 2023
 
Áo
0–1 0–1 Euro 2008
5. 6 tháng 9 năm 2008 Sân vận động Maksimir, Zagreb, Croatia
Top 5 vận động viên route nfl 2022 năm 2023
 
Kazakhstan
2–0 3–0 Vòng loại World Cup 2010
6. 15 tháng 10 năm 2008
Top 5 vận động viên route nfl 2022 năm 2023
 
Andorra
3–0 4–0
7. 6 tháng 6 năm 2009
Top 5 vận động viên route nfl 2022 năm 2023
 
Ukraina
2–2 2–2
8. 6 tháng 9 năm 2011
Top 5 vận động viên route nfl 2022 năm 2023
 
Israel
1–1 3–1 Vòng loại Euro 2012
9. 9 tháng 9 năm 2014
Top 5 vận động viên route nfl 2022 năm 2023
 
Malta
1–0 2–0 Vòng loại Euro 2016
10. 13 tháng 10 năm 2014 Sân vận động Gradski vrt, Osijek, Croatia
Top 5 vận động viên route nfl 2022 năm 2023
 
Azerbaijan
5–0 6–0
11. 12 tháng 6 năm 2016 Sân vận động Công viên các Hoàng tử, Paris, Pháp
Top 5 vận động viên route nfl 2022 năm 2023
 
Thổ Nhĩ Kỳ
1–0 1–0 Euro 2016
12. 9 tháng 11 năm 2017 Sân vận động Maksimir, Zagreb, Croatia
Top 5 vận động viên route nfl 2022 năm 2023
 
Hy Lạp
4–1 Vòng loại World Cup 2018
13. 16 tháng 6 năm 2018 Sân vận động Kaliningrad, Kaliningrad, Nga
Top 5 vận động viên route nfl 2022 năm 2023
 
Nigeria
2–0 2–0 World Cup 2018
14. 21 tháng 6 năm 2018 Sân vận động Nizhny Novgorod, Nizhny Novgorod, Nga
Top 5 vận động viên route nfl 2022 năm 2023
 
Argentina
3–0
15. 9 tháng 9 năm 2019 Bakcell Arena, Baku, Azerbaijan
Top 5 vận động viên route nfl 2022 năm 2023
 
Azerbaijan
1–0 1–1 Vòng loại Euro 2020
16. 10 tháng 10 năm 2019 Sân vận động Poljud, Split, Croatia
Top 5 vận động viên route nfl 2022 năm 2023
 
Hungary
1–0 3–0
17. 30 tháng 3 năm 2021 Sân vận động Rujevica, Rijeka, Croatia
Top 5 vận động viên route nfl 2022 năm 2023
 
Malta
2–0 3–0 Vòng loại World Cup 2022
18. 22 tháng 6 năm 2021 Hampden Park, Glasgow, Scotland
Top 5 vận động viên route nfl 2022 năm 2023
 
Scotland
2–1 3–1 Euro 2020
19. 11 tháng 10 năm 2021 Sân vận động Maksimir, Zagreb, Croatia
Top 5 vận động viên route nfl 2022 năm 2023
 
Slovakia
2–2 2–2 Vòng loại World Cup 2022
20. 11 tháng 11 năm 2021 Sân vận động quốc gia, Ta' Qali, Malta
Top 5 vận động viên route nfl 2022 năm 2023
 
Malta
4–1 7–1
21. 29 tháng 3 năm 2022 Sân vận động Thành phố Giáo dục, Al Rayyan, Qatar
Top 5 vận động viên route nfl 2022 năm 2023
 
Bulgaria
1–1 2–1 Giao hữu
22. 13 tháng 6 năm 2022 Stade de France, Saint-Denis, Pháp
Top 5 vận động viên route nfl 2022 năm 2023
 
Pháp
1–0 1–0 UEFA Nations League 2022–23
23. 25 tháng 9 năm 2022 Sân vận động Ernst Happel, Viên, Áo
Top 5 vận động viên route nfl 2022 năm 2023
 
Áo
3–1

Danh hiệu[sửa | sửa mã nguồn]

Câu lạc bộ[sửa | sửa mã nguồn]

Dinamo Zagreb[sửa | sửa mã nguồn]

  • Prva HNL: 2005–06, 2006–07, 2007–08
  • Cúp quốc gia Croatia: 2006–07, 2007–08
  • Siêu cúp Croatia: 2006

Real Madrid[sửa | sửa mã nguồn]

  • La Liga: 2016–17, 2019–20, 2021–22
  • Copa del Rey: 2013–14
  • Supercopa de España: 2012, 2017, 2019–20, 2021–22
  • UEFA Champions League: 2013–14; 2015–16, 2016–17, 2017–18, 2021–22
  • UEFA Super Cup: 2014, 2016, 2017, 2022
  • FIFA Club World Cup: 2014, 2016, 2017, 2018

Quốc tế[sửa | sửa mã nguồn]

Cá nhân[sửa | sửa mã nguồn]

  • Cầu thủ xuất sắc nhất giải vô địch bóng đá quốc gia Bosnia và Herzegovina: 2003
  • Cầu thủ triển vọng của Croatia: 2004
  • Cầu thủ xuất sắc nhất năm của Giải vô địch bóng đá quốc gia Croatia: 2007
  • Giải Áo vàng Sportske novosti: 2007–08
  • Cầu thủ Croatia xuất sắc nhất năm: 2007, 2008, 2011, 2014
  • Đội hình tiêu biểu của Euro: 2008
  • Cầu thủ xuất sắc nhất mùa giải của Tottenham Hotspur: 2010-11
  • Football Oscar - Cầu thủ Croatia xuất sắc nhất năm: 2013, 2014, 2015[80][81][82], 2016
  • Đội hình tiêu biểu UEFA Champions League: 2013–14, 2015-16, 2016-17, 2017-18
  • Tiền vệ xuất sắc nhất La Liga: 2013–14
  • Quả Bóng Vàng World Cup 2018

(một danh hiệu từ Các giải thưởng của Giải vô địch bóng đá thế giới).

  • Cầu thủ xuất sắc nhất năm của UEFA: 2018
  • Giải thưởng The Best của FIFA năm 2018
  • Giải thưởng Ballon d'Or của France Football năm 2018.

Ghi chú[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^
    • Tweedale, Alistair (17 September 2014). "Modest Modric Madrid's Superstar in the Shadows". WhoScored.Com. Retrieved 16 June 2018. "It is fair to say with Xavi's decline Modric is now ahead of him in the pecking order, and he, Kroos, Cesc Fàbregas and Andrea Pirlo are now arguably the best technical central midfielders on the planet at present, and some might even say that Modric is, or could soon be, leading the pack."
    • Marcotti, Gabriele (14 November 2016). "Real Madrid star Luka Modric is ranked as the best central midfielder". ESPN FC. Retrieved 16 June 2018.
    • Bidwell, Nick (11 March 2017). "Europe's best midfielder? Luka Modric biography". World Soccer. Retrieved 16 June 2018.
    • Ronay, Barney (12 May 2017). "All hail Luka Modric, the maestro who makes Real Madrid's superstars tick". The Guardian. Retrieved 16 June 2018.
    • Madu, Zito (3 June 2017). "Luka Modrić was the most important player in Real Madrid's run to back-to-back Champions League titles". SB Nation. Retrieved 16 June 2018.
    • Buskulic, Ante; Tironi, Hrvoje Tironi. (18 November 2017). "How Luka Modric went from rejected youth player to the best midfielder in the world". Goal.com. Retrieved 16 June 2018.
    • Burton, Chris. (6 October 2017). "Luka Modric one of the best midfielder ever". Goal.com. Retrieved 16 June 2018. "Croatian playmaker Modric is yet to earn similar acclaim, amid a Cristiano Ronaldo and Lionel Messi duopoly of top individual awards, but his undoubted quality is not lost on those in Madrid and around the world."
    • Sherman, Justin. (19 October 2017) "The making of Luka Modric from war-torn Croatia to the world's best midfielder". The Football Times. Retrieved 16 June 2018
    • Abayomi, Tosin (21 June 2018). "Modric score stunner against Argentina". Pulse Nigeria. Retrieved 1 July 2018. "Luka Modrić is one of the greatest midfielders in the history of football, and deserves to be treated as such."
    • Brown, Euan (22 June 2018). "Luka Modric: It's time to give him a seat at the elite table". UK Blasting News. Retrieved 1 July 2018. "It's about time [Luka Modric] was recognised as one of the game's all-time greats".
    • Nakrani, Sachin. (30 June 2018) "Luka Modric: the unassuming genius driving Croatia’s tilt at the World Cup". The Observer. Retrieved 1 July 2018

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ “Statistics” (PDF). Premier League. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 11 tháng 7 năm 2010. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2011.
  2. ^ Hugman, Barry J. biên tập (2010). The PFA Footballers' Who's Who 2010–11. Mainstream Publishing. tr. 290. ISBN 978-1-84596-601-0.
  3. ^ “Lȗka”. Hrvatski jezični portal (bằng tiếng Serbo-Croatia). Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2018. Lȗka
  4. ^ “mȍdar”. Hrvatski jezični portal (bằng tiếng Serbo-Croatia). Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2018. Módrić
  5. ^ “Luka Modric sẽ làm mọi cách để ở lại Real Madrid”. MARCA (bằng tiếng Anh). 7 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 5 tháng 7 năm 2021.
  6. ^ Pitman, Mark (23 tháng 6 năm 2021). “Euro 2020: Luka Modric chiến đấu cho Croatia chống lại ác quỷ trong quá khứ của anh ấy”. www.sportskeeda.com (bằng tiếng en -us). Truy cập ngày 5 tháng 7 năm 2021.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  7. ^ “Luka Modric wins 2018 Ballon D'or”. francefootball.fr.
  8. ^ “Čast je imati takvog kapetana: Modrić postao prvi nogometaš kojem je ovo uspjelo!”. Večernji list (bằng tiếng Croatia). 8 tháng 1 năm 2021. Truy cập 24 tháng 3 năm 2021.
  9. ^ “Modric War Hell”. News Of The World. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 4 năm 2010. Truy cập ngày 14 tháng 8 năm 2008.
  10. ^ Bojan Puric, Boris Herceg and Igor Kramarsic. “Croatia - List of Champions”. Rec.Sport.Soccer Statistics Foundation. Truy cập ngày 12 tháng 8 năm 2008.
  11. ^ “Modric HNL's Footballer Of The Year”. Javno. ngày 21 tháng 12 năm 2007. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2008.
  12. ^ “Norwich v Tottenham: Latest”. EDP24 Sport. ngày 28 tháng 7 năm 2008. Truy cập ngày 29 tháng 4 năm 2008.[liên kết hỏng]
  13. ^ Lyon, Sam (ngày 16 tháng 8 năm 2008). “Middlesbrough 2-1 Tottenham”. BBC Sport. Truy cập ngày 19 tháng 8 năm 2008.
  14. ^ White, Duncan (ngày 14 tháng 12 năm 2008). “Dimitar Berbatov fails to silence Tottenham's chorus of boos”. Daily Telegraph. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 12 năm 2008. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2008.
  15. ^ Hughes, Ian (ngày 18 tháng 12 năm 2008). “Tottenham 2-2 Spartak Moskva”. BBC Sport. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2008.
  16. ^ Chowdhury, Saj (ngày 21 tháng 12 năm 2008). “Newcastle 2-1 Tottenham”. BBC Sport. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2008.
  17. ^ “Ngược dòng ngoạn mục, M.U tiến gần ngôi vương”. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 4 năm 2009. Truy cập ngày 28 tháng 4 năm 2009.
  18. ^ “Tottenham - West Ham 2-0: Spurs vào tốp 4”. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 1 năm 2010. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2009.
  19. ^ “Luka signs new six-year contract”. Tottenham Hotspur. ngày 30 tháng 5 năm 2010. Truy cập ngày 15 tháng 9 năm 2010.
  20. ^ Jamie Lillywhite (ngày 11 tháng 9 năm 2010). “West Brom 1 - 1 Tottenham”. BBC Sport. Truy cập ngày 21 tháng 11 năm 2010.
  21. ^ N.M (ngày 13 tháng 9 năm 2010). “Tottenham: Đến lượt Modric dính chấn thương”. Thể thao & Văn hoá. Truy cập ngày 21 tháng 11 năm 2010.
  22. ^ Alex Young (ngày 24 tháng 11 năm 2010). “Tottenham 3-0 Werder Bremen: Kaboul, Modric And Crouch Ease Spurs Into Last 16”. Goal.com. Truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2010.
  23. ^ “Luka Modric firma su contrato con el Real Madrid” (bằng tiếng Tây Ban Nha). Trang web chính thức của Real Madrid. ngày 27 tháng 8 năm 2012. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2012.
  24. ^ “Modrić completes move to Madrid”. UEFA.com. ngày 27 tháng 8 năm 2012. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2012.
  25. ^ Phong Linh (ngày 31 tháng 8 năm 2012). “Hậu Siêu cúp: Song và Modric ra mắt thành công”. Bóng Đá +. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2012.
  26. ^ Ngọc Trung (ngày 4 tháng 11 năm 2012). “Nhìn lại chiến thắng thứ 100 của Jose Mourinho tại Madrid”. Dân trí. Truy cập ngày 4 tháng 11 năm 2012.
  27. ^ “Real Madrid recover against Real Mallorca with Luka Modric screamer”. The Guardian. Associated Press. ngày 17 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2013.
  28. ^ “Real Madrid 5–2 Mallorca: Modric rocket highlight of Blancos' comeback victory”. ngày 17 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2013.
  29. ^ Cox, Michael (ngày 1 tháng 5 năm 2013). “How Mourinho's subs helped Real score two and almost scrape through”. guardian.co.uk. Truy cập ngày 14 tháng 5 năm 2013.
  30. ^ “El uno a uno del Real Madrid”. marca.com. ngày 1 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 14 tháng 5 năm 2013.
  31. ^ “Player Ratings: Real Madrid 2–0 Borussia Dortmund (Agg 3–4)”. goal.com. ngày 1 tháng 5 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 14 tháng 5 năm 2013.
  32. ^ “Real Madrid-Borussia Dortmund Live”. whoscored.com. ngày 1 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 14 tháng 5 năm 2013.
  33. ^ Mardsen, Samuel (ngày 4 tháng 5 năm 2013). “Luka Modric Is Beginning to Look Like a Real Madrid Player After Difficult Year”. bleacherreport. Truy cập ngày 14 tháng 5 năm 2013.
  34. ^ Atkinson, Tre' (ngày 8 tháng 5 năm 2013). “Real Madrid 6–2 Malaga: What We Learned from Los Blancos' Big Win”. bleacherreport. Truy cập ngày 14 tháng 5 năm 2013.
  35. ^ Pettigrove, Jason (ngày 9 tháng 5 năm 2013). “Rating the Real Madrid Players in Their 6–2 Win Against Malaga”. bleacherreport. Truy cập ngày 14 tháng 5 năm 2013.
  36. ^ Jabalquinto, Diego (ngày 9 tháng 5 năm 2013). “Real Madrid surpassed 5,500 goals in La Liga against Malaga”. realmadrid.com. Truy cập ngày 14 tháng 5 năm 2013.
  37. ^ Cerezo, H. (ngày 12 tháng 12 năm 2013). “Modric is Carlo's fifth most used player”. Marca. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2013.
  38. ^ “Modric: Shades of Old Trafford”. Marca. ngày 11 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2013.
  39. ^ “Real keep firing against Getafe”. Marca. ngày 16 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2014.
  40. ^ “Điểm 10 cho Modric”. Tuổi Trẻ Online. ngày 25 tháng 4 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 4 năm 2014. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2014.
  41. ^ “Modric jugó su partido número 100 con el Real Madrid”. realmadrid.com. ngày 29 tháng 4 năm 2014. Truy cập ngày 29 tháng 4 năm 2014.
  42. ^ “Bayern Munich 0-4 Real Madrid”. bbc.com. ngày 29 tháng 4 năm 2014. Truy cập ngày 29 tháng 4 năm 2014.
  43. ^ “Real Madrid 4-1 Atletico Madrid”. UEFA. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2014.
  44. ^ “Real Madrid lần thứ 10 vô địch Champions League”. Tuổi Trẻ Online. ngày 25 tháng 5 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2014.
  45. ^ “UEFA Champions League squad of the season”. UEFA. ngày 2 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2015.
  46. ^ “Luka Modrić, 'Best Midfielder in the 2013-14 Liga BBVA'”. LFP. ngày 27 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2015.
  47. ^ Rob Phillips (ngày 12 tháng 8 năm 2014). “Super Cup: Cristiano Ronaldo scores twice in Real Madrid win”. BBC. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2014.
  48. ^ “First-half goals from Luka Modric and Cristiano Ronaldo helped Real Madrid continue their La Liga resurgence with a hard-fought victory over Villarreal”. BBC. ngày 27 tháng 9 năm 2014. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2017.
  49. ^ “Luka Modric: Real Madrid star ruled out for over three months”. BBC. ngày 18 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2014.
  50. ^ 'Modric chấn thương vì sự vô tâm của Ancelotti'”. TTVH Online. ngày 20 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2017.
  51. ^ “Modric – Real Madrid's image of maturity”. Marca. ngày 9 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2017.
  52. ^ Polo, Pablo (ngày 16 tháng 7 năm 2015). “Super Luka”. Marca. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2017.
  53. ^ “Shakhtar Donetsk 3 Real Madrid 4, match report: Real hold on to top Champions League group ahead of PSG”. The Telegraph. ngày 25 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2017.
  54. ^ “Đội hình tiêu biểu Champions League 2016-2017”. VnExpress. ngày 6 tháng 6 năm 2017. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2018.
  55. ^ Juan Ignacio García-Ochoa (ngày 16 tháng 12 năm 2017). “Modric claims 2017 Club World Cup golden ball”. Fédération Internationale de Football Association. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2018.
  56. ^ “Madrid beat Liverpool to complete hat-trick”. UEFA. ngày 26 tháng 5 năm 2018. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2018.
  57. ^ “Real áp đảo, Barca chỉ có 1 đại diện trong đội hình tiêu biểu Champions League 2018”. TTVH Online. ngày 28 tháng 5 năm 2018. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2018.
  58. ^ “Kranjcar chases dream”. FIFA.com. ngày 13 tháng 4 năm 2006. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2007.
  59. ^ “Austria 0-1 Croatia”. bbc.com. ngày 8 tháng 6 năm 2008. Truy cập ngày 29 tháng 4 năm 2014.
  60. ^ “Bilic: Modric is Europe's best”. Metro News. ngày 13 tháng 6 năm 2008.
  61. ^ Euro 2008: Croatia 1-1 Turkey (1-3 penalties)
  62. ^ Modrić in EURO's best team
  63. ^ “EURO buồn của Modric”. Thể thao và Văn Hóa. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2015.
  64. ^ “Croatia 1 Mexico 3”. BBC Sport. ngày 23 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2015.
  65. ^ Elvir Islamović (ngày 9 tháng 9 năm 2014). “Modrić sets Croatia on course to sink Malta”. UEFA. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2015.
  66. ^ Islamović, Elvir (ngày 13 tháng 10 năm 2014). “Croatia beat Azerbaijan for third straight win”. UEFA. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2017.
  67. ^ Pavić, Marko (ngày 2 tháng 9 năm 2015). “Modrić uoči kapetanskog debija: Ponosan sam, vjerujem da ću na pravi način predstavljati Hrvatsku” [Modrić ahead of the captain's debut: I am proud, I believe that I will properly represent Croatia] (bằng tiếng Croatia). Večernji list. Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2016.
  68. ^ “Modric làm nên lịch sử với cú vô-lê vào lưới Thổ Nhĩ Kỳ”. VNExpress. ngày 13 tháng 6 năm 2016. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2017.
  69. ^ “Croatia thắng đậm, chạm một tay vào vé dự World Cup”. VNExpress. ngày 10 tháng 11 năm 2017. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2018.
  70. ^ “Croatia thắng nhờ bàn phản lưới và phạt đền ở World Cup 2018”. VNExpress. ngày 17 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2018.
  71. ^ “Croatia đẩy Argentina vào cửa tử”. VNExpress. ngày 22 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2018.
  72. ^ Paul Fletcher (ngày 1 tháng 7 năm 2018). “Croatia beat Denmark in tense shootout”. BBC Sport. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2018.
  73. ^ “Luka Modrić i njegova trudna djevojka vjenčali se u tajnosti” [Luka Modrić and his pregnant girlfriend married in secret] (bằng tiếng Croatia). Večernji list. ngày 12 tháng 5 năm 2010. Truy cập ngày 17 tháng 7 năm 2018.
  74. ^ “Vanja i Luka Modrić pripremili vjenčanje godine” [Vanja and Luka Modrić prepared a marriage of the year] (bằng tiếng Croatia). Večernji list. ngày 11 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 17 tháng 7 năm 2018.
  75. ^ “Football star Luka Modric becomes a father”. Croatian Times. ngày 7 tháng 6 năm 2010. Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2012.
  76. ^ a b “Obiteljska idila Luke Modrića” [Family idyll of Luka Modrić] (bằng tiếng Croatia). Gloria. ngày 9 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2013.
  77. ^ “Vanja i Luka Modrić kćer nazvali Ema” [Vanja and Luka Modrić named daughter Ema] (bằng tiếng Croatia). Večernji list. ngày 2 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2013.
  78. ^ “Luka Modrić nakon dva tjedna napokon pokazao kćerkicu preslatkog imena” [After two weeks Luka Modric finally showed the daughter with adorable name] (bằng tiếng Croatia). Gloria. ngày 16 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 17 tháng 10 năm 2017.
  79. ^ “Modric lives the quiet life”. Marca. ngày 10 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2014.
  80. ^ “PRVI NOGOMENI OSCAR Nagrade u rukama Modrića, Sammira, Rebića, Ivkovića...”. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2015.
  81. ^ “Igrači i treneri drugu godinu za redom Modrića proglasili najbolji igračem Hrvatske”. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2015.
  82. ^ “NOGOMETNI OSCARI Modrić najbolji hrvatski igrač, najtrener Mamić se ispričao”.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]

Top 5 vận động viên route nfl 2022 năm 2023
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Luka Modrić.

David Bell, WR, Purdue Boilermakers, 2022 NFL Draft

David Bell của Purdue là một trong những người chạy tuyến tốt nhất trong lớp người nhận rộng năm nay và đó là một kỹ năng mà các đội NFL đang chú ý hơn nữa

David Butler II-USA Today Sports

Trong trò chơi bóng đá đại học đầu tiên của mình vào năm 2018, Rondale Moore chạy nước rút vào một chuyến bay phản lực từ dòng 24 yard Purdue.Sinh viên năm nhất thực sự tăng tốc về phía bên lề nhà và sau đó trồng chân trái như thể đó là một lá cờ Mỹ trên mặt trăng.Một hậu vệ Tây Bắc xoay quanh bất lực, nhân đôi trong việc theo đuổi, và đám đông gầm lên."Oooh," đã ngạc nhiên khi một nhà bình luận mạng lớn của Big Ten và Moore đã biến mất - bay xuống sân để ghi điểm.

"Vở kịch đó," Jamarcus Shephard, người đã huấn luyện tại Purdue sau đó và bây giờ tại Đại học Washington nói."Người bảo vệ trông gần giống như anh ta bị đánh bại bởi một crossover [Allen Iverson]. Cách Rondale có thể thay đổi hướng với tốc độ bạo lực - khiến tôi nhận ra anh ta khác."

Dự thảo NFL là rất nhiều về các phép đo quen thuộc cũ: 40 lần, băng ghế, dọc.Nhưng rất nhiều năng lực nhận được trong NFL hiện đại là về bước duy nhất đó.Điều phối viên trò chơi vượt qua của Đại học Texas Brennan Marion nói theo cách này: "Những người có bạo lực chuyển động đó - những người có thể bạo lực ở đầu đường cắt."NFL Draft is so much about the old familiar measurables: the 40 time, the bench, the vertical. But so much of receiving prowess in the modern NFL is about that single step. University of Texas passing game coordinator Brennan Marion puts it this way: "Guys who have that violence of movement — who can be violent at the top of the cut."

Chúng tôi đã thấy nó mùa NFL này trong sự nhẹ nhõm, dưới dạng ngôi sao Rams Cooper Kupp.Chỉ cần mọi điểm nổi bật của Kupp cho thấy anh ta đặt chân như thể anh ta đang cố gắng phá vỡ nền tảng của sân vận động.Đến vòng playoffs, mọi người đều biết bóng sẽ lên vị trí thứ 10, và nó vẫn ở đó.Anh ấy cũng không phải là người duy nhất.Một số người bắt bóng ưu tú nhất được biết đến nhiều hoặc nhiều hơn với các tuyến đường của họ hơn là tốc độ hoặc bước nhảy vọt của họ: Kupp, Davante Adams, Justin Jefferson, Stefon Diggs và thậm chí là những người nổi bật mới nổi như Amon-Ra St. Brown.

Athlon Sports 2022 NFL Draft Guide

Hướng dẫn dự thảo NFL của Athlon Sports bao gồm các báo cáo Hướng đạo chuyên sâu về 230 triển vọng hàng đầu.Ở 176 trang, đây là bản xem trước đầy đủ nhất của bản nháp sắp tới.Mua một bản sao trực tuyến ngay hôm nay, phiên bản kỹ thuật số để truy cập tức thì hoặc tìm nó trên các sạp báo ở khắp mọi nơi.

Hầu hết những người đó đã không thu hút được một tấn tiếng vang dự thảo khi họ ra khỏi trường.Thật vậy, một trong những điều kỳ lạ nhất về dự thảo là sự mất kết nối thường xuyên giữa các máy thu NFL hiệu quả nhất và cổ phiếu dự thảo của họ.Trong thời kỳ hiện đại, chỉ có ba NFL rộng đã giành được Triple Crown - dẫn đầu giải đấu về các cuộc tiếp khách, sân và chạm bóng.Họ là Kupp, Sterling Sharpe và Steve Smith Sr. Hai trong số ba người đó - Kupp và Smith - thu được tiếng vang dự thảo tương đối khiêm tốn, lần lượt được chọn lần lượt thứ 69 và 74.Adams (Pick 53), St. Brown (chọn 112) và Diggs (chọn 146) là những câu chuyện tương tự.Thành công có vẻ rõ ràng khi nhìn lại, nhưng những người nhận như thế này dường như luôn bị trượt.

Nó có ý nghĩa ở một cấp độ: không ai trong số những người này rất cao, và các đội luôn muốn dự án tài năng tiếp theo thay vì sản phẩm hoàn chỉnh tiếp theo."Dự thảo là một trong những điều đó", Shephard nói, "bạn thấy mình luôn cố gắng sửa chữa mọi thứ. Tôi phải sửa chữa điều này, sửa chữa điều đó. Dự thảo có một yếu tố của điều đó - nitpicking để tìm xu hướng."

Nhưng sự thành công của Kupp và những người khác trong mùa này có thể thay đổi một số ưu tiên khi thời gian lựa chọn đến.Trong thời đại mà các hậu vệ có thể bao quát như các góc, các đội cần coi trọng độ chính xác cũng như pop.Vì vậy, mặc dù bạn sẽ nghe thấy một số cái tên hào nhoáng ngay từ đầu trong bản nháp-Jameson Williams của Alabama, Treyylon Burks của Arkansas, Drake London của USC-ưu thế ở vị trí người nhận cũng nhiều về việc chạy theo tuyến đường như từng có.Hai trong số những triển vọng hàng đầu, Garrett Wilson và Chris Olave của bang Ohio, đã được biết đến với sự bùng nổ và thay đổi hướng và khả năng phi tiêu và né tránh sau khi bắt.Câu hỏi đặt ra là: Liệu những điều kỳ diệu một bước sẽ leo lên cao hơn một chút trên bảng dự thảo, hay các đội sẽ đánh hơi một lần nữa?

Liên quan: & NBSP; Xếp hạng máy thu rộng trong Dự thảo NFL năm 2022

Một trong những điểm tương đồng hấp dẫn nhất đối với Rondale Moore đến từ cùng một khuôn viên.David Bell của Purdue chắc chắn không có phong cách giống như Hồng y Arizona nổi bật, nhưng anh ta có cùng độ tin cậy.Mặc dù là một lựa chọn rõ ràng cho các mục tiêu trong cả mùa giải, anh ấy đã có 1.286 yard và sáu lần chạm bóng.Nói một cách dễ hiểu hơn, anh ta buộc phải bỏ lỡ một giải quyết nhiều hơn một lần cho mỗi bốn lần bắt anh ta thực hiện.

Shephard nhớ một trong những ngày đầu tiên của một trại mùa thu, khi Bell "Nâng cao trên đỉnh của một trong những góc của chúng tôi, anh ấy đã nhảy qua anh ấy và dang gần hạ cánh trên đầu."

Shephard chạy nước rút để hét lên Bell vì gần như bị tổn thương.Sau đó, ông nhận thấy các huấn luyện viên khác xử lý những gì vừa xảy ra: Người nhận này sẽ là một vấn đề cho hàng phòng ngự ngay cả khi cú ném không lý tưởng.

"Đó là một điều để có thể chạy một tuyến đường trong một-một-các tuyến đường trên không," Shephard nói."Nhưng để có sự hiểu biết để ngăn chặn con đường đúng cách và rời khỏi giờ nghỉ, bất kể phạm vi bảo hiểm, đó là nơi anh ta tách biệt chính mình."

Tách riêng mình có một ý nghĩa kép cho rất nhiều người bắt bóng hàng đầu này.Huấn luyện viên trưởng của Purdue, Jeff Brohm, nói rằng ít nhất một số sự nhanh chóng đó là từ các môn thể thao khác, nơi các vận động viên phải tìm không gian trong giao thông lớn.

"Anh ấy đã xuất sắc trên sân bóng rổ," Brohm nói về Bell."Anh ấy có sự phối hợp bằng tay tự nhiên đó, vì vậy mọi thứ rất tự nhiên khi bắt bóng đá."

Đây là điều mà Marion cũng đã thấy trong suốt những người nhận huấn luyện nghề nghiệp của mình - những người chơi có thể "jab và tách biệt - giống như cách bạn có thể trong bóng rổ."

Tuy nhiên, giống như rất nhiều người ngủ khác, Bell đã nghi ngờ vòng quanh anh ta như hậu vệ phòng ngự.Báo cáo Hướng đạo Football Focus cho biết: "Tôi không chắc có nhiều chỗ để cải thiện trong khu vực Bell còn thiếu. Các công cụ vật lý khiêm tốn của anh ấy là điều khiến anh ấy không cao hơn trong các bảng dự thảo."

Đó là loại chỉ trích này có thể nâng cao trò chơi của người nhận."Các giải đấu không được tạo thành từ tất cả các anh chàng năm sao," Marrion nói."Thông thường, đó là người mà mọi người nói là không đủ tốt, và anh ta đã tức giận vì sự vĩ đại."

Thật khó để tìm thấy một người nhận vừa là "tức giận vì sự vĩ đại" và vẫn được định sẵn cho sự vĩ đại dựa trên tài năng.Đó là Chén Thánh trong trò chơi dự thảo, và Marion cho rằng anh ta có thể đã huấn luyện một cầu thủ như vậy trong Jordan Addison của Pitt. Anh ta không có trong dự thảo năm nay, nhưng sau khi giành được giải thưởng Biletnikoff với tư cách là sinh viên năm thứ hai thực sự, anh ta là một ngườiĐặt cược tốt để đi vào vòng đầu tiên vào năm 2023.

"Anh ấy là tài năng hiếm hoi làm việc như anh ấy là một người đi bộ," Marion nói."Điều đó rất hiếm. Anh ấy có khả năng, tốc độ, không có mắt cá chân và có thể thực hiện bất kỳ vết cắt nào."

Trong một trận chiến qua lại với Virginia mùa trước, Marion (huấn luyện viên của Pitt Wide Reconers vào năm 2021 trước khi chuyển sang Texas) đã tiếp cận Addison bên lề và nói: "Bạn sẽ phải thắng trò chơi này."Addison nhanh chóng ghi điểm TD thứ tư của mình trong đêm để băng Cavaliers.

"Anh ấy thực sự đã đưa bóng ra khỏi DB và chạy nó 70 yard," Marion nói."Tôi nghĩ, 'OK, anh chàng này'"

Đó thường là những người nhận tiếp quản các trò chơi lớn nhất dịch tốt nhất cho cấp độ tiếp theo.Điều đó đưa chúng ta đến một người ngủ có thể khác trong nhóm năm nay - Wan'dale Robinson của Kentucky.Nếu bạn đang tự hỏi tần suất Vương quốc Anh tạo ra tài năng nhận được ưu tú, thì chính Robinson cũng vậy.Ban đầu anh rời khỏi bang của mình để chơi trong hành vi phạm tội của Scott Frost tại Nebraska.Sau khi được sử dụng thường xuyên như một máy nghiền ở Lincoln, anh ta chuyển trở lại trạng thái bluegrass và nổ ra.Robinson xếp thứ tám trong cả nước với 13 lần chơi hơn 30 yard, và anh ta đã tiếp quản Citrus Bowl theo kiểu nâng lông mày với 10 lần bắt trong 170 yard.

Vị trí người nhận có thể thu hút sự chú ý gần như nhiều sự chú ý như tiền vệ, và rất nhiều người chơi vị trí đó yêu thích sự chú ý đó.Tuy nhiên, có thể có một số tedium liên quan.Có thể có tuyến đường sau khi không có mục tiêu.Có thể có việc chặn đường xuống trong thời tiết xấu.Có thể có một loạt các vở kịch mà bạn là người giải mã - anh chàng mà người đi đường khóa mắt và sau đó bắn ra.Đó là bộ phim có thể tiết lộ ai tách biệt nhất với gói.Nếu tuyến đường còn nguyên sơ mà không có bóng vào bức tranh, đó là một dấu hiệu rất tốt.

"Bạn sẽ thấy sự nhất quán trong tuyến đường," Shephard nói."Ngay cả đôi khi nếu bạn nhìn vào bộ phim của Rondale và David, nó cho bạn biết họ đã được huấn luyện đúng cách và có thể tiếp thu thông tin và kiến thức."

Làm thế nào bạn có thể biết những người nhận nào có thể làm bạn ngạc nhiên trong NFL, bất kể các phép đo?Xem bước duy nhất bạn nhìn thấy và vô số bước mà không ai nhìn thấy.

- & nbsp; của Eric Adelson (@eric_adelson) & nbsp; cho Hướng dẫn dự thảo NFL thể thao Athlon 2022.

Ai là người nhận tốt nhất trong NFL năm 2022?

2022 NFL mùa 10 máy thu rộng hàng đầu: Justin Jefferson quay ở vị trí số 1 trên Tyalet Hill.Mỗi tuần của mùa giải NFL 2022, nhóm phân tích Gen Stats tiếp theo sẽ trình bày một bảng xếp hạng sức mạnh vị trí khác có nghĩa là làm nổi bật các màn trình diễn hàng đầu giữa một nhóm người chơi cụ thể.Justin Jefferson reels in No. 1 spot over Tyreek Hill. Each week of the 2022 NFL season, the Next Gen Stats analytics team will present a different Position Power Ranking meant to spotlight the top performances among a specific group of players.

Ai là người nhận rộng nhất trong NFL 2022?

Người chơi NFL nhanh nhất 2022..
Kenneth Walker, Seattle Seahawks - 22,09 dặm / giờ ..
Hội trường Breece, Máy bay phản lực New York - 21,87 dặm / giờ ..
DeSean Jackson, Baltimore Ravens - 21,72 dặm / giờ ..
Christian Watson, Green Bay Packers - 21,72 dặm / giờ ..
Jaylen Waddle, Miami Dolphins - 21,68 dặm / giờ ..
Dalvin Cook, Minnesota Vikings - 21,68 dặm / giờ ..

Ai là người nhận tốt nhất trong NFL ngay bây giờ?

Cooper Kupp, Los Angeles Rams (tuần trước: 4) Người chơi tấn công NFL trị vì của năm và Super Bowl MVP, Kupp mở đầu số 2022 số 1 trong bảng xếp hạng máy thu rộng NFL của Sportsaut.

Ai là máy thu rộng số 1 trong NFL?

Davante Adams, Las Vegas Raiders Adams đã đạt được điểm 92,7 PFF trong sự nghiệp vào năm 2021, mốc thứ hai liên tiếp của anh trên 92.0.Anh ta cũng đã tạo ra 1,43 chiến thắng PFF trên thay thế (WAR) kể từ năm 2020, nhiều nhất bởi một người nhận rộng trên khoảng thời gian đó của tôi hơn một phần tư chiến thắng.