Thang điểm đánh giá mất ngủ năm 2024

Chất lượng giấc ngủ là một cấu trúc lâm sàng quan trọng, những than phiền về chất lượng giấc ngủ khá phổ biến; điều tra dịch tễ học cho thấy 15-35% dân số trưởng thành phàn nàn về rối loạn chất lượng giấc ngủ thường xuyên, ví dụ như khó ngủ hoặc khó duy trì giấc ngủ (Karacan et al., 1976, 1983; Bixler et al., 1979; Lugaresi et al., 1983; Welstein và cộng sự, 1983; Mellinger và cộng sự, 1985); đồng thời, chất lượng giấc ngủ kém có thể là một triệu chứng quan trọng của rối loạn giấc ngủ và rối loạn y khoa (Kripke et al., 1979). Do vậy, thang đo Pittsburgh Sleep Quality Index (PSQI) đã được phát triển vào năm 1989. 2, Đối tượng:

PSQI đã được sử dụng ở những người khỏe mạnh ở nhiều độ tuổi khác nhau, những người mắc bệnh Parkinson, những người sống sót sau chấn thương, những người có vợ hoặc chồng đã mất và những bệnh nhân mắc bệnh hoặc hoảng loạn, rối loạn, trầm cảm hoặc ám ảnh xã hội

3, Mục đích của thang đo:

Đánh giá chủ quan về chất lượng và rối loạn giấc ngủ rất quan trọng đối với nhiều nhà nghiên cứu và bác sĩ lâm sàng vì chất lượng giấc ngủ giảm và có thể ảnh hưởng sâu sắc đến chất lượng cuộc sống và có thể liên quan đến bệnh về thể chất hoặc cảm xúc (Buysse DJ, Reynolds CF, Monk TH, Berman SR, Kupfer DJ ; 1989) (Hoch CC, Dew MA, Reynolds CF, et al ; 1994). Ngoài ra nó còn cung cấp một chỉ số dễ dàng sử dụng cho các bác sĩ lâm sàng và các nhà nghiên cứu để giải thích và cung cấp một đánh giá lâm sàng ngắn gọn và hữu về một loạt các rối loạn có thể ảnh hưởng đến chất lượng giấc ngủ.

4, Mô tả thang đo:

Thang đo PSQI được hoàn tại nhà và trả lại qua thư bưu chính; bao gồm 19 mục tạo ra điểm chất lượng giấc ngủ toàn cầu và 7 điểm thành phần sau:

● Chất lượng giấc ngủ chủ quan ● Độ trễ của giấc ngủ ● Thời gian ngủ ● Hiệu quả giấc ngủ ● Rối loạn giấc ngủ ● Sử dụng thuốc ngủ ● Rối loạn chức năng ban ngày trong tháng trước. Các mục PSQI yêu cầu nhiều câu trả lời khác nhau bao gồm ghi lại thời gian ngủ thông thường, thời gian thức bình thường, số giờ ngủ thực tế và số phút để ngủ; cũng như các câu hỏi kiểu Likert bắt buộc, bao gồm các lý do khiến bạn khó ngủ như không thể ngủ trong vòng 30 phút, cảm thấy quá nóng và đau,... các trả lời cho các mục này bao gồm: (a) không trong tháng vừa qua; (b) ít hơn một lần một tuần; (c) một hoặc hai lần một tuần; và (d) ba lần trở lên mỗi tuần. Bảng câu hỏi được thay đổi tùy theo nhóm người tham gia. Tất cả những người tham gia hoàn thành PSQI sẽ thực hiện Báo cáo kinh nghiệm về triệu chứng (SER) và Hồ sơ về trạng thái tâm trạng (POMS). SER là thang đo 20 mục đánh giá các triệu chứng thực thể. Người thực hiện được hỏi đánh giá mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng xuất hiện trong tuần trước bằng cách sử dụng thang điểm từ 1 (rất nhẹ) đến 7 (rất nghiêm trọng). Các triệu chứng trên SER liên quan đến giấc ngủ bao gồm cảm giác mệt mỏi, các vấn đề về giấc ngủ, sự yếu kém về giấc ngủ. ( JANET S. CARPENTER and MICHAEL A. ANDRYKOWSKI, 1997) POMS là thước đo 65 mục của trạng thái tâm trạng gần đây ( McNair PM, Lorr M, Droppelman LF. POMS manual, 2nd ed. San Diego, California, 1981). Tổng điểm rối loạn tâm trạng được tính toán với sáu thành phần: sự lo lắng căng thẳng; quán tính mỏi mệt; trầm cảm thất vọng; nhầm lẫn hoang mang; hoạt động mạnh mẽ; và giận dữ thù địch. Điểm cao hơn là biểu hiện của rối loạn tâm trạng lớn hơn và căng thẳng cao hơn.

5, Độ tin cậy và tính hợp lệ:

3. Mang lại hiệu quả thật sự nhờ độ tin cậy cao: PSQI được chứng minh là một công cụ

bổ trợ có giá trị cho công việc lâm sàng đối với chứng mất ngủ là một phương pháp hữu ích đầu tiên, dễ xử lý và tiết kiệm thời gian để đánh giá rối loạn giấc, từ đó cung cấp những thông tin hữu ích nhằm giúp kết nối sự hợp tác giữa bác sĩ lâm sàng và nhà nghiên cứu. Từ việc sử dụng số liệu thu thập từ lâm sàng cho công việc nghiên cứu sâu về nguyên nhân cũng như giải pháp cho vấn đề về các bệnh lý giấc ngủ và tính phổ biến lâu dài của nó, một biện pháp mới có thể được phát triển và hoạt động như một sàng lọc lâm sàng và phỏng vấn ban đầu bằng một thước đo trong tương lai.

7, Nhược điểm:

Mặc dù đã được chuẩn hóa nhưng bộ câu hỏi của thang đo rối loạn giấc ngủ PSQI vẫn có phần chủ quan. Bài báo cáo được thực hiện ở nhà có thể phản ánh thông tin không chính xác và thiếu sự khách quan nếu giả sử người thực hiện gặp khó khăn trong việc hiểu ý đúng của câu hỏi, không biết nên trả lời hoặc câu trả lời có thể thiếu tính chân thật hay không đủ thông tin. Bài kiểm tra còn thiếu câu hỏi về vấn đề mệt mỏi, thông tin về mức độ đau, thời gian sử dụng chất gây nghiện hay là các câu hỏi về so sánh cũng như các yếu tố về văn hóa chưa được chuẩn hóa đầy đủ và hạn chế không xác định được biến nhân quả.

8, Tài liệu tham khảo:

  1. Buysse DJ, Reynolds CF, Monk TH, Berman SR, Kupfer DJ. The Pittsburgh Sleep Quality Index: a new instrument for psychiatric practice and research. Psychiatry Res 1989;28:193–213.
  2. Hoch CC, Dew MA, Reynolds CF, et al. A longitudinal study of laboratory- and diary- based sleep measures in healthy ‘‘old old’’ and ‘‘young old’’ volunteers. Sleep 1994;17:489–496. 3 TA, David D, Kulick-Bell R, Hebding J, Nolan B. Sleep disturbance and its relationship to psychiatric morbidity after Hurricane Andrew. Am J Psychiatry 1995;152:1659–1663.

4.. Menza MA, Rosen RC. Sleep in Parkinson’s disease: the role of depression and anxiety. Psychosomatics 1995;36:262–266. 5 AA, Adler LA, Peselow E, Zornberg G, Rosenthal M. Trazodone for antidepressantassociated insomnia. Am J Psychiatry 1994;151:1069–1072. 6. Reynolds CF, Hoch CC, Buysse DJ, et al. Sleep after spousal bereavement: a study of recovery from stress. Biol Psychiatry 1993;34:791–797. 7. Stein MB, Kroft CD, Walker JR. Sleep impairment in patients with social phobia. Psychiatry Res 1993;49:251–256. 8. Andrykowski MA, Altmaier EM, Barnett RL, Otis ML, Gingrich R, Henslee-Downey PJ. Quality of life of adult survivors of allogeneic bone marrow transplantation: correlates and comparison with matched renal transplant recipients. Transplantation 1990;50:399–406. 9. Andrykowski MA, Greiner CB, Altmaier EM, et al. Quality of life following bone marrow transplantation: findings from a multicentre study. Br J Cancer 1995;71:1322– 1329.

Làm thế não để dễ ngủ hơn?

Dưới đây là 20 cách đơn giản để đi vào giấc ngủ nhanh nhất có thể..

Hạ nhiệt độ phòng. ... .

Sử dụng phương pháp thở 4-7-8. ... .

Lên lịch đi ngủ ... .

Hấp thụ ánh sáng cả ban ngày và ban đêm. ... .

Tập yoga, thiền. ... .

Tránh nhìn vào đồng hồ ... .

Tránh ngủ vặt trong ngày. ... .

Đồ ăn có thể tác động xấu đến chất lượng giấc ngủ.

Làm sao để trị chứng mất ngủ?

12 cách trị mất ngủ cho người già tại nhà.

Liệu pháp tâm lý ... .

Thư giãn (tập thở sâu, ngồi thiền…) ... .

Massage. ... .

Ngâm chân bằng nước ấm. ... .

Thay đổi chế độ ăn uống. ... .

Bổ sung khoáng chất. ... .

Thay đổi không gian phòng ngủ phù hợp. ... .

Thay đổi thói quen trước khi ngủ.

Tháng PSQI là gì?

Trắc nghiệm rối loạn giấc ngủ PSQI là 1 bài kiểm tra cho kết quả khá chính xác tình trạng rối loạn và chất lượng giấc ngủ của bệnh nhân. Với phương pháp này, tình trạng rối loạn giấc ngủ của người bệnh sẽ được đánh giá dựa trên thang đo chỉ số chất lượng giấc ngủ Pittsburgh (The Pittsburgh Sleep Quality Index – PSQI).

Thang điểm ISI là gì?

Thang đo mất ngủ (Insomnia Severity Index, ISI) Thang đo rối loạn giấc ngủ được Morin phát triển (2003). Thang đo gồm 7 câu hỏi. Mỗi câu hỏi được đánh giá theo thang điểm Likert 5 điểm từ 0-4.