So sánh bệnh gạo lợn và gạo bò

Phân biệt sán dây lợn và sán dây bò

TÔI NGHE NGƯỜI TA NÓI “GẠO BÒ”, “GẠO HEO” CÓ THỂ LÂY CHO NGƯỜI?

TÔI NGHE NGƯỜI TA NÓI “GẠO BÒ”, “GẠO HEO” CÓ THỂ LÂY CHO NGƯỜI. VẬY XIN CÁC BÁC CHO BIẾT GẠO BÒ, GẠO HEO LÀ GÌ? TÔI LÀ NGƯỜI NUÔI HEO THÌ CÓ BỊ LÂY GẠO HEO KHÔNG?
(Một người chăn nuôi ở Thanh Hóa)

Không có gì thích thú cho bằng vào buổi sáng trời Thanh Hóa se lạnh, ngồi trước tô phở tái bốc khói thơm lừng, các bác sẽ vô tư thưởng thức món ngon mà không hề hay biết một nguy cơ đang rình rập khi ăn thịt bò hoặc thịt heo chưa nấu chín. Vậy bác hãy theo dõi nguy cơ đó là gì nhé?
Cả thịt bò và thịt heo đều có thể bị nhiễm “gạo” (đó là cái nang có chứa ấu trùng của hai loại sán khác nhau). Nếu thịt bò bị nhiễm gạo, từ khoa học gọi là cysticercus bovis, còn gạo heo được gọi là cysticercus cellulosae.
Sở dĩ gọi là gạo bò vì trong mô cơ của bò có những nang hình giống hạt gạo, màu trắng hoặc màu vàng nhạt, bên trong có chứa đầu sán. Đó là ấu trùng của sán dây Taenia saginata ký sinh trong ruột non của người. Bò là ký chủ trung gian, người là vật chủ cuối cùng.
Gạo heo được gọi là cysticercus cellulosae, cũng có hình dạng giống hạt gạo dài 6-15mm; rộng 3-5mm. Ngoài cùng là lớp màng mỏng, bên trong là lớp dịch trong suốt, trong đó có một chấm trắng đó là đầu sán, ấu trùng của sán dây Taenia solium ký sinh trong ruột non của người. Heo là ký chủ trung gian, người là vật chủ cuối cùng. Vòng đời của sán dây Taenia solim tương tự với vòng đời của sán dây Taenia saginata.

HEO, BÒ HÌNH THÀNH “GẠO” BẰNG CÁCH NÀO?
Người bị nhiễm sán dây Taenia solium hoặc sán dây Taenia saginata, sán dây trưởng thành ký sinh ở trong ruột non của người, nếu người phóng uế ngoài đồng, những đốt sán dây được theo phân người ra ngoài, trứng của sán dây có thể sống sót hàng tháng trên cánh đồng. Nếu heo ăn phải trứng sán dây Taenia solium hoặc bò ăn phải trứng sán dây Taenia saginata, khi trứng sán vào tới ruột non của heo, của bò, chúng được giải phóng và xâm nhập vào mạch máu, rồi đi đến hệ lâm ba và tới các cơ quan. Khoảng 40-50 ngày sau sẽ hình thành một nang gọi là gạo ở những nơi như cơ hoành, cơ liên sườn, cơ thăn, cơ cổ, cơ lưỡi. Kể từ khi heo, bò ăn phải trứng sán thì 2-4 tháng sau sẽ phát triển thành gạo hoàn chỉnh trong cơ. Do heo, bò chỉ là ký chủ trung gian nên heo và bò bị gạo thường không biểu hiện triệu chứng gì ra bên ngoài.

NGƯỜI BỊ NHIỄM SÁN DÂY HOẶC HÌNH THANH “GẠO” BẰNG CÁCH NÀO?
Ở trên người có hai trường hợp xảy ra:

-Trường hợp thứ nhất: Khi người ăn phải thịt heo hoặc thịt bò có chứa các nang ấu trùng (gạo) chưa được nấu chín hoặc ăn tái. Khi vào tới dạ dày, lớp màng ngoài của “gạo” sẽ bị phá vỡ, đầu sán được giải phóng và bám vào niêm mạc ruột non và phát triển thành sán trưởng thành chỉ sau 2-3 tháng. Sán Taenia solium trưởng thành dài khoảng 2-7m. Sán Taenia saginata trưởng thành dài khoảng 4-10m. Sán trưởng thành sản xuất ra khoảng 1.000 đốt sán dây, mỗi đốt chứa xấp xỉ 50.000 trứng. Sán trưởng thành tồn tại trong ruột non nhiều năm. Vòng đời của ký sinh trùng được hoàn tất.
Người bị sán dây có thể có các triệu chứng như đau bụng, ói, buồn nôn, ngứa vùng quanh hậu môn, suy nhược, chóng mặt, nhức đầu, tiêu chảy hoặc táo bón, ăn không ngon miệng, giảm cân.
-Trường hợp thứ hai: Khi người ăn phải thức ăn, nước uống có chứa trứng sán dây hoặc bằng cách tự nhiễm. Tự nhiễm là hiện tượng một người đã có Taenia solium trong ruột non và trứng sán hoặc những đột sán dây được đưa trở vào dạ dày từ ruột non do sự nhu động ngược. Lúc này những trứng sán được ăn vào hay do sự tự nhiễm sẽ bám vào ruột rồi di chuyển đến mô cơ, não, gan và những mô khác trong cơ thể. Ở đó chúng sẽ phát triển thành “gạo”. Sự hình thành gạo ở người là nguy hiểm nhất, vì nếu “gạo” khu trú ở não sẽ gây ra hiện tượng động kinh và có thể đưa đến tử vong.

PHÒNG NGỪA NHIỄM “GẠO HEO”, “GẠO BÒ” BẰNG CÁCH NÀO?
Nếu thịt bò, thịt heo bị gạo trữ lạnh ở nhiệt độ -10oC trong 10 ngày (tủ lạnh thường dùng trong nhà không đạt được nhiệt độ này) hoặc nấu chín thì sẽ diệt được gạo. Vậy để phòng ngừa tốt nhất là:

1. Nên ăn chín, uống sôi, không nên ăn thịt tái (không những chỉ đề phòng gạo mà còn phòng ngừa các bệnh khác có thể lây từ thú sang người nữa).

2. Phải rửa tay kỷ bằng xà phòng trước khi ăn.

3. Không nên phóng uế bừa bãi ngoài đồng mà phải đi vệ sinh trong nhà cầu.

Qua những thông tin vừa trình bày ở trên cho thấy việc lây "gạo bò", "gạo heo" sang người là thông qua con đường ăn thịt bò, thịt heo bị nhiễm gạo từ thịt chưa nấu chín chứ không liên quan gì đến sự tiếp xúc trong quá trinh chăn nuôi. Vì vậy bác cứ yên tâm phát triển nghề chăn nuôi của minh nhé. Kính chúc sức khỏe và nhiều thành công.


PGS.TS.LÊ VĂN THỌ

1. Nguyên nhân gây bệnh sán lợn gạo(sán gạo heo)

Nguyên nhân gây bệnh chủ yếu do ăn các loại thức ăn nhiễm các ấu trùng trong đất, trong nước ( rau thủy sinh, rau sống không rửa sạch..) hoặc nhiễm từ các sản phẩm thịt không được nấu chín.

So sánh bệnh gạo lợn và gạo bò

2. Triệu chứng nhiễm sán lợn gạo

Bệnh sán dây trưởng thành thường không có biểu hiện triệu chứng rõ rệt, một số trường hợp có biểu hiện lâm sàng như đau bụng, rối loạn tiêu hóa hoặc có triệu chứng thần kinh (suy nhược).

Những trường hợp nhiều sán, có thể nhìn thấy đốt sán ra theo phân hoặc tự bò ra ngoài hậu môn (thường nhìn thấy trong quần lót khi thay ra vào cuối ngày làm việc); xuất hiện đốt sán theo phân (những đoạn nhỏ, dẹt, trắng ngà như sơ mít, đầu sán bằng phẳng).

Sán dây bò- Taenia saginata

Nói chung bệnh sán dây bò, phổ biến hơn sán dây lợn. Theo ước tính trên thế giới có khoảng 39 triệu người nhiễm. Theo thống kê của Viện Sốt rét - KST - CT Trung ương, đến năm 2004, ở Việt Nam đã có 49 tỉnh thành phát hiện bệnh nhân có sán dây bò.

Đặc điểm hình thể.

Sán trưởng thành:

Sán trưởng thành dài 4 - 12 m, hoặc có thể dài hơn nữa.

Thân có khoảng 1.200 - 2.000 đốt.

Đầu sán: hơi dẹt, đường kính khoảng 1- 2 mm, có 4 giác, không có vòng móc.

Cổ: dài khoảng 5 mm, hẹp.

Các đốt sán: gần đầu, chiều ngang lớn hơn chiều dọc, càng xa đầu chiều dài càng lớn hơn chiều ngang. Kích thước trung bình mỗi đốt từ 6 - 20 x 10 - 12 mm.

Tử cung chứa đầy trứng (khoảng 100.000 trứng).

So sánh bệnh gạo lợn và gạo bò

Hình 12.10: Sán dây T.saginata trưởng thành.

Các đốt sán:

Các đốt gần cổ (đốt non) chưa có cấu tạo gì bên trong rõ rệt, chỉ chứa mầm phôi thai của cơ quan sinh dục. Các đốt càng xa cổ càng già, có thể chia ra làm ba loại đốt:

Đốt non: bộ phận sinh dục đực xuất hiện trước và chiếm ưu thế, bộ phận sinh dục cái xuất hiện sau.

Đốt trưởng thành: có cả bộ phận sinh dục đực và cái phát triển hoàn thiện và cân đối.

Đốt già: bộ phận sinh dục cái xuất hiện trước và chiếm ưu thế, toàn đốt chỉ gồm có tử cung phân nhánh, chứa đầy trứng, bộ phận sinh dục đực chỉ còn lại dấu vết của đường dẫn tinh, các bộ phận khác thoái hoá hết. Lỗ sinh dục mở ra bên cạnh đốt, xen kẽ không đều nhau giữa các đốt.

So sánh bệnh gạo lợn và gạo bò

Hình 12.11: Đốt sán dây T.saginata.

Hình 12.12: Trứng sán dây T.saginata.

Trứng:

Trứng màu nâu xẫm, rất giống trứng của sán dây lợn, khó phân biệt.

Nang ấu trùng sán dây bò:

Là một bọc chứa đầy chất lỏng trong đầu ấu trùng, không có móc, có bốn giác gọi là “gạo bò”, ở thịt bò có kích thước 7,5 - 10 x 4 - 6 mm.

Đặc điểm sinh học.

Sán dây bò kí sinh ở ruột non người.

So sánh bệnh gạo lợn và gạo bò

Hình 12.13: Vòng đời sinh học của sán dây T.saginata.

Những đốt sán già tự động ngắt ra khỏi thân sán, chủ động bò ra hậu môn, rồi bò ra quần áo, giường chiếu. Vì vậy bệnh nhân thường biết là mình có bệnh. Các đốt sán rụng ra thành những đơn vị độc lập, chuyển động nhờ những cơ rất khoẻ, chúng có thể bò lên bụng, lên nách bệnh nhân hoặc bò khắp giường chiếu. Hàng ngày thân sán có thể mọc dài ra 3 - 28 đốt.

Các đốt sán già rơi ra ngoại cảnh vỡ ra, giải phóng hàng trăm nghìn trứng. Trâu, bò ăn phải đốt sán, vào tới ruột trứng sán nở ra ấu trùng, ấu trùng rơi vào hệ tuần hoàn về tim vào đại tuần hoàn đi tới các cơ vân hình thành nang ấu trùng ở cơ của trâu, bò, gọi là “gạo bò” (cysticercus - bovis).

Nang ấu trùng thấy nhiều ở cơ lưỡi, cơ hoành, cơ tim, cơ mông… của trâu, bò.

Nếu người ăn thịt trâu, bò có nang ấu trùng, chưa được nấu chín hoặc tái, sống thì nang ấu trùng vào ruột người rồi ấu trùng thoát ra khỏi nang, đầu lộn ra ngoài, bám vào màng ruột và phát triển thành sán trưởng thành, trong từ khoảng 8 - 10 tuần.

So sánh bệnh gạo lợn và gạo bò

Hình 12.14: Nang ấu trùng sán dây bò trong cơ.

Người là vật chủ chính. Trâu, bò là vật chủ phụ. Sán dây bò có thể sống trong cơ thể người từ 20 - 30 năm.

Trước đây quan niệm rằng: người chỉ mắc bệnh sán trưởng thành không mắc bệnh ấu trùng. Nhưng hiện nay người ta thấy hầu hết các loại sán dây người đều có thể mắc cả bệnh sán trưởng thành và bệnh ấu trùng. Nhưng hiếm thấy người mắc bệnh ấu trùng của sán dây bò hơn.

Theo thông báo của Han Jong Rin, khoa Kí sinh trùng, trường Đại học Y Triều Tiên cho biết: sán dây bò châu Á cho đến nay được nhận dạng là T.saginata và thấy rõ sự khác biệt qua mô tả chu kì phát triển và gần đây được đặt tên là T.saginata taiwanesis (1992). Sự khác nhau chủ yếu giữa các sán dây T.saginata và sán dây mới T.saginata châu Á là vật chủ trung gian và mô nhiễm.

Ấu trùng sán dây T.saginata châu Á được tìm thấy trong gan của lợn nhiều hơn trong cơ của bò.

Vai trò y học.

Do kích thước của sán dây bò rất lớn, nên thường gây những rối loạn tiêu hoá với các triệu chứng: đau tức vùng thượng vị, đau bụng khi đói, ỉa lỏng, sút cân, đôi khi buồn nôn.

Người mắc bệnh sán dây bò còn bị những tác động tâm lí nặng nề, khó chịu và ghê sợ, khi nhìn thấy những đốt sán tự rụng ra, bò khắp nơi: giường, chiếu, quần áo…

Thường rất hiếm thấy người mắc bệnh ấu trùng sán dây bò.

Chẩn đoán.

Cần chẩn đoán phân biệt với sán dây lợn theo bảng dưới đây.

Bảng so sánh phân biệt sán dây lợn và sán dây bò:

Sán dây lợn

Sán dây bò

Đầu

Có 2 vòng móc.

Không có móc.

Chiều dài

2 - 3 m.

4 -12 m.

Đốt già

Dài 10 - 12 mm, tử cung chia nhánh: 6 - 8 - 12.

Dài 18 - 20 mm, tử cung chia nhánh: 18 - 35.

Số đốt

800 -1.000.

1.200 - 2.000.

Hình thức rụng

Thường rụng từng khúc.

Rụng từng đốt.

Đốt sán già

Ngắn có 5 - 6 đốt liền nhau theo phân ra ngoài.

Tự động bò ra ngoài không cần theo phân.

Trứng

Hình cầu, đường kính 35 - 36 µm.

Hình bầu dục 30 - 40 x 20 - 30µm.

Nang ấu trùng

(gạo)

Cysticercus celluloase dễ nhận

Cysticercus bovis khó nhận.

Vật chủ trung gian

Lợn (bắt buộc), người, lợn rừng, chó...

Trâu, bò (bắt buộc), người có thể là vật chủ trung gian nhưng hiếm.

Hình thức nhiễm sán

Do ăn thịt lợn sống có ấu trùng, ăn phải trứng hoặc có sán rồi bị nôn đốt sán già từ ruột non lên dạ dày.

Do ăn thịt bò, trâu sống.

Điều trị.

Giống như điều trị sán dây lợn trưởng thành.

Dịch học và phòng chống.

Nhìn chung, phòng chống sán dây bò giống như sán dây lợn. Sán dây phân bố rộng rãi trên thế giới.

Trâu bò mắc bệnh do ăn cỏ có trứng sán, những cánh đồng cỏ hai bên bờ sông bị ngập nước, trứng sán bò vẫn có thể sống lâu hơn 8 tuần lễ. Bò con dưới 1 tuổi dễ nhiễm bệnh sán. Bò lớn hơn có miễn dịch một phần.

Các xứ sở theo đạo Hồi như Ấn Độ… rất hiếm bị bệnh sán dây bò vì kiêng thịt bò.

Hiện nay có xu hướng phòng bệnh cho trâu, bò bằng cách tiêm vaccin tạo cho bò không nhiễm sán. Dùng kháng nguyên điều chế từ oncospheres cho bò cái uống. Kháng thể IgA do tế bào lympho B ở niêm mạc tăng tiết. Từ đó IgA chuyển sang tuyến vú và IgA có trong sữa bò cái. Bê bú sữa này có kháng thể IgA có khả năng chống nhiễm sán.